Tiêu đề ảnh 1

Nội dung ảnh 1.

Tiêu đề ảnh 2

Nội dung ảnh 2.

Tiêu đề ảnh 3

Nội dung ảnh 3.

Tiêu đề ảnh 4

Nội dung ảnh 4.

Tiêu đề ảnh 5

Nội dung ảnh 5.

jeudi 20 septembre 2012

Tại Sao Tâm Luôn Luôn Động


Trong kinh “Tứ Diệu Đế” Đức Phật đã nói rõ “Bản chất của cuộc đời này là khổ đau”, “Nguyên nhân khổ chính là dục”. Dục nghĩa là tham muốn. Khi sống còn có tham muốn thì tâm luôn luôn động, không bao giờ bất động. Do có quá nhiều tham muốn, tâm con người không bao giờ ngừng suy nghĩ, tính toán, lo lắng, bất an, sợ hãi và buồn phiền. Khi sống không còn tham muốn thì tâm sẽ bất động. Ví dụ:
Tâm tham muốn ăn uống món này món nọ,  lúc nào cũng nghĩ đến ăn uống, thích ăn nhiều lần, thích ăn vặt, ăn phi thời, đi đâu làm gì cũng nghĩ đến ăn uống, thích đi chợ, thích nấu chế biến món ăn, thích ăn những món ăn bổ dưỡng,…
Tâm tham ngủ, ngủ hết giờ này đến giờ khác, ăn xong rồi ngủ, nướng qua nướng lại,…ngủ phi thời, giờ nào ngủ cũng được. 
Tâm tham muốn có vật này vật nọ, thấy vật nào đẹp cũng thích, thấy người khác có vật gì thì cũng muốn có, thích mua sắm, để dành, tích trữ,…
Tâm tham muốn danh vọng, quyền lực, chức vị, bằng cấp, bằng khen,… muốn có địa vị cao hơn người khác. Ham thích lảnh đạo, chỉ đạo người khác, thích người khác nghe theo ý của mình, muốn người khác nghe lời mình, làm theo ý mình, muốn người khác tôn sùng mình, tự cho mình là đúng, là giỏi, là tài, là thông minh, độc tài, độc đoán, độc quyền, thích phán xét, bình luận, châm biếm, thích so sánh mình với người khác, chỉ trích người khác, kiêu căng, tự mãn, cao ngạo, xem thường người khác,…
Tâm tham muốn có nhiều tiền, trúng số, may mắn, buôn bán giàu có, có nhiều của cải tài sản, nhà cửa, đất đai, thích đầu tư, tích trữ, muốn giàu có hơn người khác, muốn làm giàu bằng con đường cờ bạc, đánh đề, cá độ, buôn lậu, khai gian trốn thuế, lừa gạt người khác,…
Tâm tham muốn học nhiều môn, muốn hơn người khác, muốn giỏi hơn người khác, muốn thông minh, muốn hiểu biết nhiều hơn người khác.
Tâm muốn có người yêu, có vợ, có chồng, có con, có cháu, có gia đình, có người thân, có nhiều bạn bè, có nhiều quan hệ rộng,…
Tâm muốn nuôi các loài vật, muốn trồng nhiều loại bông hoa đẹp,…
Tâm muốn làm cái này, cái nọ, không thích ở yên một chổ, thích hoạt động tay chân, thích lái xe đi đây đó,…
Tâm ham thích sáng tạo, chế tạo, phát minh, cải tiến, nghiên cứu, viết sách, viết thơ, viết truyện, viết lách…
Tâm ham thích đi chơi đây đó, đi du lịch, đi dã ngoại, đi ra biển, leo núi, thích chụp hình, thích vẽ tranh, đánh đàn…
Tâm thích xem phim ảnh, nghe ca nhạc, thích tài tử, thích ca sĩ, vào mạng internet,…
Tâm thích uống rượu bia nhậu nhẹt, ăn chơi, thích đời sống hưởng thụ của vua chúa,…
Tâm thích người khác phái, thích ghét ai đó, giận ai đó, oán hận ai đó, trách móc ai đó, lo lắng cho ai đó, nhớ thương ai đó hoặc các loài vật nào đó, …
Tâm nhiều chuyện, thích để ý chuyện người khác, tò mò chuyện người khác, không biết giữ kín chuyện, hay phóng đại nghe một nói hai, thích tụ họp đông người bàn chuyện thiên hạ,…
Tâm muốn có sức khỏe tốt, có thân hình đẹp, cao, nở nang, gương mặt đẹp,  tướng tốt, …
Tâm thích những vật đẹp nhất, sang nhất, hiếm có nhất, cổ nhất, có giá trị nhất,…
Tâm ham thích những chuyện tâm linh huyền bí, siêu hình, ham thích những trạng thái vắng lặng, tưởng là thiền định rồi bám vào, ham thích những khả năng siêu nhiên, những công năng đặc biệt, thần thông,…
Tâm ham thích những thú vui chơi, giải trí,…
Tâm ham thích thờ lạy tôn thờ thần thánh,…  
Tâm ham thích làm việc từ thiện giúp đỡ người, phóng sanh,…  
V.v…
Do sống trong những tham muốn trên mà con người luôn phải đấu tranh, tự vệ, sợ hãi, lo lắng và phiền muộn. Nói đến cái sợ thì con người sợ đủ thứ trên đời: sợ nghèo, sợ đói, sợ già, sợ lúc về già không ai chăm sóc, sợ không có người thân bên cạnh, sợ bệnh, sợ đau đớn, sợ uống thuốc, sợ bác sĩ, sợ chết, sợ thất nghiệp, sợ xa nhau, sợ bị bỏ rơi, sợ chia tay, sợ bị mất người thương yêu, sợ gặp người mình không thích, sợ gặp kẻ thù, sợ bị hại, sợ bị mất của cải tài sản, sợ trộm cắp, sợ bị sát hại, sợ bị hãm hiếp, sợ thua người khác, sợ bị mất công danh lợi lộc, sợ ma, sợ quỷ, sợ thần thánh, sợ cô đơn lẻ loi, sợ bóng tối, sợ sống một mình, sợ sự yên tĩnh, sợ người khác không làm theo ý mình, sợ đi xe, sợ độ cao, sợ tốc độ, sợ ánh sáng, sợ khổ cực, sợ mất ngủ, sợ không ăn được, sợ người khác khinh chê, sợ những lời đàm tiếu, sợ người khác nói xấu, nói cái sai, cái lỗi của mình, sợ các loài vật, …
Khi sống trong sợ hãi, tâm sẽ mất lòng tin vào chính mình và người khác, luôn nghi ngờ, nghi kỵ nhau, nghĩ xấu về nhau, luôn tìm đủ mọi cách đạt được những gì mình muốn và có lợi cho mình. Sống trong những tâm tư như vậy, con người luôn phải tư duy suy nghĩ tìm đủ mọi cách để đạt được những gì mình muốn, bất chấp mọi thủ đoạn dù là giết người, trộm cắp, lường gạt, nói dối, ly gián, hãm hại nhau,…
Chỉ có ai biết sống đời sống như đức Phật Thích Ca, buông xuống sạch tất cả, sống khất thực từng ngày, ít muốn biết đủ, luôn ly dục ly ác pháp thì tâm sẽ tự nhiên thanh tịnh và trở nên bất động, thanh thản an lạc và vô sự.
Sự bất động, thanh thản an lạc và vô sự của tâm là do từ bỏ những tham muốn của mình chứ không phải do ngồi thiền, tụng kinh, hay niêm Phật. Đúng như lời Phật dạy trong chân lý thứ 3 của Tứ Diệu Đế – diệt dục thì tâm sẽ ở trạng thái bất động, thanh thản an lạc và vô sự. Trạng thái này gọi là Niết Bàn.
Để giúp cho tâm trở nên bất động thì phương pháp “Như Lý Tác Ý” rất quan trọng. Phương pháp này giúp cho tâm từ từ thuần phục trở về với chánh đạo, xa lìa tà đạo. Thiếu phương pháp Như lý tác ý thì tâm thường bị những ham muốn lôi kéo, không còn làm chủ mình nữa, lúc đó con người luôn sống trong nô lệ của những dục lạc tham muốn thế gian.
Ví dụ: khi tâm tham muốn ăn thêm ngoài giờ ăn chính, thì ta nhắc thầm trong đầu: “tâm phải bất động thanh thản an lạc và vô sự, không được tham ăn”
Tóm lại, muốn tâm không còn động nữa thì chỉ cần sống ly dục, ly ác pháp.  (sống yêu thương)

mardi 24 avril 2012

Thông Điệp Sự Ra Đời Của Phật

Vào ngày trăng tròn cách đây trên 25 thế kỷ , có một bậc vĩ nhân xuất hiện ở đời . Đó là Thái Tử Sĩ Đạt Ta, sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni

Ngài sinh vào cung vua Tịnh Phạn, năm 563 trước Tây Lịch . Cuộc đời Ngài từ lúc sinh cho tới lúc nhập diệt là một cuộc đời hết sức đẹp đẽ và đầy ý nghĩa . Ngài đã đi vào quá khứ, nhưng đức tính và trí tuệ của Ngài vẫn còn mãi với con người và cuộc đời . Hôm nay là ngày Phật đản chúng ta cần ôn lại một đôi điều trong các kinh điển Phật giáo để hiểu được ý nghĩa sự ra đời của Đức Từ Phụ, nguyện noi gương Ngài luôn tinh tấn trên bước đường tự lợi tự tha . Theo truyền thuyết khi sinh ra đi được bảy bước, mỗi bước có hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất , Ngài đọc bài kệ như sau :
Thiên thượng thiên hạ .
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian
Sinh lão bệnh tử
Tạm dịch :
Trên trời và dưới trời
Chỉ có Ta trên hết
Tất cả trong thế gian
Đều sinh lão bệnh tử
Những hình ảnh trên đây mang nhiều ý nghĩa rất thâm sâu. Vì sao Thái Tử Sĩ Đạt Ta đi bảy bước mà không nhiều hoặc ít hơn? Con số bảy nói lên điều gì? Về mặt thời gian , người ta thường cho là có ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai . Về không gian thì có bốn phương chính Đông, Tây, Nam, Bắc . Những quan niệm về thời gian và không gian, thật ra chỉ là con đẻ của vọng tưởng, không phải lẽ thật . Cho nên hình ảnh Thái tử đi bảy bước tượng trưng Ngài đã siêu vượt được thời gian và không gian, không còn bị ràng buộc trong những qui ước tương đối của con người .
Về hoa sen, tất cả Phật tử đều biết một đặc điểm rất tuyệt vời của nó, là mọc từ bùn nhơ mà vươn lên rồi tỏa hương thơm ngát . Hoa sen ở trong bùn mà không bị lấm bùn, không bị bùn nhơ làm ô nhiễm .
"Giữa đống rác nhơ bẩn
Nơi ấy hoa sen nở
          Làm đẹp ý mọi người…"
Thái tử cũng thế , sinh vào chốn trần lao để làm lợi ích cho chúng sanh nhưng không bị vướng mắc, nhiễm nhơ bởi bùn lầy ngũ dục . Bài kệ bốn câu Ngài đọc đã làm một số người hiểu lầm . Đạo Phật là đạo vô ngã, tại sao vị giaó chủ lại đề cao cái "ta" của mình quá đáng như thế ? Nếu đọc kỹ hai câu sau, chúng ta mới thấy cái ý nghĩa uyên áo trong đó . Tất cả chúng sinh không ai thoát được bốn điều khổ não là sinh, già, bệnh, chết, dù ở cõi chư Thiên (trên trời) hay cõi người (dưới trời) . Chỉ riêng "ta" là trên hết, vì "ta" đã thoát được sự ràng buộc này . Thử hỏi tất cả những hình tướng của thế gian, cái gì không chịu sự chi phối của lý vô thường? Có sanh thì có diệt, có hình tướng thì phải có huỷ hoại, dù là thân hình có 38 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Thái Tử . Vì thế cái "ta" ở đây dứt khoát không phải là cái ngã hữu hình hữu hoại của Ngài, mà chính là cái "Chơn ngã" . Đó là chơn tâm, Phật tánh, là bản tâm thanh tịnh, là Phật tri kiến, là tâm viên giác, là bản lai diện mục …Nó còn vô số tên vì bản chất nó không có tên . Nó không có hình tướng nên không thể bị hủy diệt . Nó trùm khắp vạn hữu nên siêu việt cả không gian và thời gian . Tất cả mọi hàm linh đều có cái ngã này, không ai hơn không ai kém, Phật đã nhận ra và sống viên mãn với nó nên Ngài thành Phật, còn chúng ta vì quên nó nên cứ mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi .
Hiểu được những điều này, chúng ta thấy mình được đôi phần an ủi . Nếu chúng ta ngồi trong tư thế thiền toạ, tâm an định không bị vọng tưởng lôi dẫn thì rõ ràng ngay lúc ấy chúng ta cũng ngồi trên toà sen . Nếu chúng ta đi từng bước thiền hành, tâm an trú trong giờ phút hiện tại mà không duyên theo các pháp, thì mỗi bước đi của chúng ta cũng có hoa sen nâng chân . Và nếu chúng ta luôn luôn tinh tấn, gội rửa dần từng lớp bụi ngũ dục, ở trong cuộc đời mà không bị nhiễm ô theo trần cảnh, thì một lúc nào đó , ánh trực giác đột nhiên bừng lên, bóng tối vô minh từ bao đờikiếp sẽ bị xua tan không còn dấu tích .
Trong kinh A Hàm có câu :
"Mộ chúng sinh duy nhất , một con người phi thường đã xuất hiện trên thế gian này, vì lợi ích cho số đông, vì lòng bi mẫn , vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc cho chư Thiên và loài Người ". Vì sao Đức Phật gọi là "một chúng sinh"? Ở đây ta phải hiểu chữ "chúng sinh" theo nghĩa, các hình tướng do nhiều pháp hợp lại mà thành . Như vậy, thân tướng của Đức Phật , dù vẻ đẹp và tướng tốt, cũng là do tứ đại giả hợp mà thành, cũng bất tịnh và vô thường như mọi người . Do đó Ngài cũng là con người. là chúng sinh; nhưng khác với chúng ta ở chỗ, Ngài là một con người phi thường, một chúng sinh duy nhất . Bởi vì Ngài là một chúng sinh duy nhất không còn tham sân si, không còn lậu hoặc phiền não . Bởi vì Ngài là một con người tuy sinh ra nơi chốn trần lao, nhưng tự tại với tất cả mọi cám dỗ của ngũ dục lục trần . Sự xuất hiện của Đức Phật nhằm mục đích cao cả, là vì lợi ích và hạnh phúc của chư Thiên và loài Ngươì . Cuộc đời Ngài là tấm gương sáng chói về sự quên mình, để đem lại an lạc và chỉ bày chân lý tối thượng cho chúng sinh .
Kinh Pháp Cú –193, Phật dạy :"Khó gắp được Như Lai, không phải đâu cũng có . Chỗ nào Phật đản sinh nơi đó tất an lạc". Nếu cho rằng Như Lai là Đức Phật có 32 tướng tốt, gọi là Như Lai xuất thế, thì quả thật rất khó gặp . Đức Phật Tích Ca ở A? Độ đã nhập diệt trên 2500 năm, đến nay chúng ta vẫn chưa thấy có một vị Phật nào khác ra đời . Nhưng nếu hiểu theo tinh thần kinh Kim Cang, Như Lai tức không từ đâu đến cũng không đi về đâu, nghĩa là phi sắc phi tướng, vô hình vô vật, thì khi chúng ta toạ thiền, tâm lặng lẽ mà hằng tri, thì ấy Như Lai đã hiện tiền . Một niệm tỉnh giác thì Đức Phật ra đời , vì Phật là Giác . Một niệm điên đảo chạy theo trần cảnh thì Đức Phật nhập diệt . Khi Như Lai tự tâm đản sinh , nghĩa là lúc tâm an định sáng suốt , thì rõ ràng nơi ấy tức khắ được an lạc .
Trong kinh Pháp Cú – 182 : " Được sinh ra làm người đã là khó . được sống lại càng khó hơn . Được nghe chánh pháp là khó . Được gặp Đức Phật ra đời là rất khó ." Quả thật ,được làm thân người là khó , vì thế giới loài người gồm 4 châu nhân gian , còn các cõi khác như địa ngục, ngạ quỷ , …Nhưng cái khó ở đây là khó phát tâm tu hành, vì thường thì ở những nơi quá sung sướng (như cõi trời ) hoặc quá khổ sở ( như địa ngục ) , chúng sinh ít có điều kiện được nhắc nhở để tiến tu . Còn cõi người thì không quá sung sướng mà cũng không quá khổ cực , nhiều khi gặp những thăng trầm trong cuộc sống hay đau khổ mất mát , đó là những cơ hội để con người thấy rõ lý vô thường hay lý nhân quả , từ đó nguyện đi theo con đường Đức Phật dạy .
Trong bốn cái khó ở trên , được gặp Phật ra đời là khó nhất . Trong một thế giới không bao giờ có hai vị Phật xuất hiện đồng thời . Chỉ khi nào giáo pháp của vị Phật trước đã hết lưu truyền , thì vị Phật sau mới ra đời . Hiện nay, dù trong thời mạt pháp , chúng ta không tận mắt thấy được ứng hóa thân của Phật , nhưng chúng ta vẫn còn nghe chánh pháp, vẫn còn chiêm ngưỡng được dung nhan của Ngài qua hình tượng . Cho nên, nếu có ai tự xưng là Phật , giảng pháp cho người người khác , hoặc phao tin sắp có hội Long Hoa , Phật Di Lặc ra đời … thì đó là những lời dối trá , mê hoặc người đời , nhằm phục vụ cho một ý đồ đen tối nào đó . Sự thị hiện của ứng hóa thân Phật trên cõi đời là một sự kiện hiếm gặp , là điều vị tằng hữu (chưa từng có) . Nhưng chúng ta có khi nào tự hỏi , Ngài xuất hiện trên đời để làm gì ? Trong kinh pháp hoa , Phật dạy : "Chư Phật xuất hiện ở đời chỉ vì một đai sự nhân duyên : Khai thị cho chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến " . Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy , ai cũng có tri kiến Phật , tức Phật tánh , như nhau , bình đẳng không khác . Từ đó sẽ nhận ra và hằng sống được với Phật tánh của chính mình một cách viên mãn .
Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập 1 , Phật dạy rằng : " Này các Tỳ kheo ! Thân của Như Lai còn tồn tại , nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác thường đã bị chặt đứt . Khi thân của Như Lai còn tồn tại, thì chư Thiên và loài Người có thể thấy thân ấy . Khi thân hoại mạng chung, thì chư Thiên và loài người không thể thấy được". Khi Đức Phật còn tại thế, thân 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Ngài là một điều kiện tốt để dễ gần và dễ giaó hoá những chúng sinh căn cơ thấp kém . Vì chìu uốn theo tánh dục của chúng sinh nên Ngài phải thị hiện sắc thân như thế . Nhưng dù thân ấy còn tồn tại, mà cái nghiệp lực thúc đẩy thọ lãnh thân sau đã không còn . Chính lòng ái dục đã tạo dòng nghiệp lực khiến đưa đến một đời sống khác, với chánh báo và y báo tương ưng . Ứng hoá thân của Phật, vì có hình tướng nên chư Thiên và loài Người có thể thấy được . Khi thân ấy đã hoại, Đức Phật trở về với pháp thân vô tướng nên không ai có thể thấy được Ngài . Tất cả chúng ta đều có pháp thân vô tướng như thế, vấn đề ở chỗ chúng ta có nhận ra không và tu hành cách nào để có thể sống được với nó, niêm mật từng phút giây .
Chúng ta đã xét qua ý nghĩa về sự đản sinh của Đức Phật, để thấy rõ rằng sự xuất hiện của Thế Tôn, vị giaó chủ của chúng ta, là một việc hy hữu ở đời . Cứ mỗi lần mùa Khánh đản đến, người Phật tử về chùa, nghe quý thầy nhắc lại về cuộc đời và những đức tính cao đẹp của Ngài, chúng ta mới biết rằng Ngài đã trải qua vô lưọng kiếp tu hành , cuối cùng mới thị hiện là Thái tử Sĩ Đạt Ta ở A? Độ, sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Ngài là một bậc vĩ nhân, đã để lại một hình ảnh không bao giờ phai mờ trong lòng những người con Phật khắp năm châu bốn biển . Vì cuộc đời Ngài quá vĩ đại và đẹp đẽ, nên từ xưa đến nay, biết bao người đã dùng mọi hình thức văn hoá để ca tụng cái toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ của Ngài. Biết bao người đã nguyện noi gương Ngài, quên mình để phụng sự chúng sinh, hy sinh hạnh phúc riêng tư để lo cho hạnh phúc của nhiều người . Những sứ giả của Như Lai đã mang thông điệp của Đức Phật đi vào cuộc đời, làm cho con người hiểu được bản chất của kiếp sống là vô thường, là đau khổ, từ đó thúc giục con người sớm theo lời dạy của Ngài tu hành để được giác ngộ và giải thoát .
Hôm nay, một lần nữa kỷ niệm ngày Phật Đản, chúng ta đem hết tâm thành quy ngưỡng và đảnh lễ Ngài . Chúng ta thấy mình rất có phước duyên nên mới được làm người, được thấm nhuần dòng sữa pháp, được chư Tăng Ni hướng dẫn tu hành, được làm bạn đạo cùng những người hiền thiện . Chúng ta nguyện nhớ mãi hình ảnh Ngài bước trên hoa sen khi mới ra đời, để noi gương Ngài cũng bước từng bước an lạc thảnh thơi trên những bất ổn của cuộc sống . Thân ngũ uẩn của chúng ta tuy ở trần thế, nhưng phải biết vươn lên không để bùn nhơ của ngũ dục làm ô nhiễm . Từ đó chúng ta sẽ góp phần thổi một luồng sinh khí mới vào cuộc đời, khiến mọi người cũng được an lạc và hạnh phúc . Đây là cách duy nhất để đền đáp ơn khó của Đức Bổn Sư vô cùng quý kính của chúng ta. 

vendredi 13 avril 2012

Chùa Tôi







































jeudi 15 mars 2012

Cách thức thờ Phật & thờ gia tiên


HỎI: Gia đình tôi lập bàn thờ cha mẹ đã lâu rồi từ khi cha mẹ mất đi. Nhưng vừa rồi căn nhà đó đã bán và bàn thờ ấy dời về nhà em tôi, nay tôi đã mua được nhà mới và muốn thờ cha mẹ tại nhà riêng của mình thì có phải xem ngày giờ để lập bàn thờ hay lúc nào thuận tiện thì để hình lên bàn thờ? Cách thức thế nào, mong quý báo chỉ dẫn. Bàn thờ cha mẹ tôi đặt phía dưới bàn thờ Phật (cùng nhìn về một hướng) có được không?
Chúng tôi chưa có điều kiện thờ tượng Phật, vậy có thể thỉnh tranh Phật Bà Quan Âm về thờ để hàng ngày tụng kinh niệm Phật được không? Có thể lập bàn thờ Phật cạnh bàn thờ gia tiên? Và có phải mời thầy về làm lễ an vị Phật thì sự thờ tự mới linh nghiệm?
(MỸ KHÁNH, mykhanh@sapharco.com; THÀNH LỄ, thanhle_vunga@yahoo.com)
ĐÁP:
Bạn Mỹ Khánh và Thành Lễ thân mến!
Bàn thờ Phật và bàn thờ gia tiên là không gian tâm linh không thể thiếu trong mỗi gia đình Phật tử Việt. Tùy vào hoàn cảnh và điều kiện của mỗi nhà mà chúng ta có thể thiết trí bàn thờ Phật và bàn thờ gia tiên cho thích hợp. “Tiền Phật hậu linh” là bàn thờ Phật đặt phía trước cao hơn và bàn thờ gia tiên đặt kế sau, thấp hơn bàn thờ Phật. Những gia đình có phòng thờ lớn, rộng rãi thường chọn cách thờ tự này. “Thượng Phật hạ linh” là bàn thờ Phật ở phía trên (dạng kệ gắn sát tường), bàn thờ gia tiên ở phía dưới. Cách thờ này dành cho các phòng thờ nhỏ, bàn thờ giản đơn. Ngoài ra, còn có một số cách thờ tự khác nữa nhưng nói chung, bàn thờ Phật bao giờ cũng phải cao hơn bàn thờ gia tiên để thể hiện lòng tôn kính Tam bảo.
Về cách thức thờ Phật, thờ tượng Phật (chất liệu gỗ, gốm, thạch cao, đá…) hay tranh ảnh Phật (in, chụp, vẽ, thêu…) với hình thức tượng đứng hay ngồi đều được. Quan trọng là hình ảnh Phật phải đẹp đẽ và đầy đủ các hảo tướng. Thờ vị Phật hay Bồ tát nào là do nhân duyên của mỗi người, có thể thờ Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Bồ-tát Quán Thế Âm… Bàn thờ Phật phải đủ rộng để có thể tôn trí tượng Phật, bài trí lư hương, chén nước, bình hoa, dĩa quả và luôn sạch sẽ, trang nghiêm.
Bàn thờ gia tiên có thể bài trí di ảnh của những người mất (hay linh vị cửu huyền thất tổ nói chung) cùng lư hương, chén nước, hoa quả và đủ rộng để dọn một mâm cơm cúng ông bà cha mẹ khi kỵ giỗ. Lúc dọn về nhà mới thì nhanh chóng bài trí bàn thờ để hương khói phụng thờ tổ tiên mà không cần phải xem ngày giờ. Riêng bàn thờ Phật, sau khi chúng ta thỉnh Phật về tôn trí tại tư gia, nếu hội đủ duyên lành nên thỉnh ít nhất một vị thầy về nhà làm lễ an vị đồng thời cầu an cho gia đạo. Tuy vậy, khi chưa thỉnh được thầy về an vị Phật cho gia đình thì quý vị Phật tử vẫn có thể lễ bái, tụng niệm trước bàn thờ Phật bình thường.
Chúc bạn tinh tấn!
                                                                                          Giác Ngộ Online

lundi 12 mars 2012

Mẹ ……!!!


Mẹ ……!!!

Tiếng  gọi sao thân thương thế. Từ bé thơ, con đã được người mang nặng đẻ đau, trao cho con hết tất cả tình thương.

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm bún, lưỡi lừa cá xương.

Kính lạy mẹ, bậc ân nhân vô thượng. Mẹ là tuyệt tác vĩ đại mà thiên nhiên đã ban tặng cho cuộc đời.
Nếu ai hỏi con tự hào điều gì nhất về mẹ, con sẽ hãnh diện nói rằng con tự hào nhất khi nhìn thấy gương mặt mẹ, bởi lúc đó con biết mẹ còn sống, mẹ đang bên cạnh chở che, là chỗ dựa tinh thần cho con và truyền cho con niềm tin, nghị lực trong cuộc sống, để đối mặt với cuộc đời đầy phong ba. Cuộc sống không có hạnh phúc nào bằng khi được gọi tiếng “mẹ”, ngắm nhìn mẹ cười, được ôm mẹ vào lòng và đặc biệt, được vuốt mái tóc pha gió sương của mẹ là con hạnh phúc lắm.

Mẹ! Mẹ có biết rằng con vẫn luôn ghen tị với mẹ.Vì mẹ của con có mái tóc dài mượt – còn con là con của mẹ, sao tóc con ngắn thế? Rằng con vẫn ghen tị với mẹ  là tài nấu ăn của mẹ ngon không thể chê - còn con là con của mẹ sao con  nấu chẳng được như mẹ vậy? Rằng con luôn vẫn ghen tị, mỗi khi mẹ mua quần áo mới cho em con, lúc đó chút thoáng buồn rơi trong lòng con…. Mẹ có biết, mỗi khi con buồn con luôn nhớ về mẹ, bởi hình ảnh người mẹ hiền lam lũ là động lực vực con dậy trước sóng gió của cuộc đời. Dẫu biết rằng con đường con đi không phải là con đường thẳng, nhưng con luôn tự tin vì có mẹ luôn bên cạnh con, và rồi mỗi lần con vấp ngã hình ảnh của mẹ hiện lên, lúc đó con tự nhủ với mình  “không khóc, không được khóc và không thể khóc”.  Con biết rằng, ở phương xa con luôn có mẹ cổ vũ, ôm con vào long, lau từng giọt nước mắt cho con mỗi khi con khóc.

Và mẹ có biết rằng… :con yêu mẹ nhiều lắm không?

Rồi con cứ sợ, sợ đến một ngày con không còn sống với những ghen tị, không được nhìn thấy mẹ cười, không được ăn những món mẹ nấu, không được tựa vào lòng mẹ nữa…. Con nghĩ, chắc lúc đó con sẽ không sống nổi vì không còn mẹ bên cạnh.

Mẹ! Mẹ hãy hứa với con, mẹ sẽ chăm lo cho sức khỏe mình, nha mẹ!. Con biết những cơn gió lạnh  kéo về, sẽ làm cho mẹ con đau nhức mỏi vì căn bệnh thấp khớp. Con biết, mẹ sẽ chẳng khi nào được nghỉ ngơi dù chỉ một ngày, hết việc ngoài vườn rồi tới việc trong nhà. Con biết, mẹ con đặt hết niềm tin vào chúng con. Nhưng mẹ ơi !Mẹ hãy tin rằng: chúng con luôn phấn đấu nỗ lực hết mình, bởi vì,   tương lai tốt đẹp của chúng con là động lực để kéo mẹ mãi mãi ở bên cạnh mình.

Mẹ ơi! hãy ở bên con mãi nhé, con không ghen tị nữa đâu, con chỉ cần có mẹ.
Mẹ! Mẹ hãy hứa với con, Mẹ sẽ sống đời với chúng con nha mẹ.
Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không?

“Hãy yêu khi mẹ còn biết
Đừng chờ đến lúc mẹ ra đi
Ghi lời yêu quý lên bia đá
Đá vô tri nào có nghĩa gì”.

Chúng con là Nguyên Vĩnh và Quảng Mẫn kính chúc mẹ dấu yêu và tất cả những người mẹ trên thế gian tràn đầy sức khỏe và hạnh phúc.

Xin mượn lời bài hát “Bông hồng cài áo” để tri ân đến ngày 8/3 quốc tế phụ nữ:

“Mẹ, mẹ là dòng suối dịu hiền… là bài hát thần tiên… là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối. Rồi một chiều nào đó anh về nhìn mẹ yêu,nhìn thật lâu. Rồi nói, nói với mẹ rằng “Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ có biết hay không? Biết là… biết là con thương mẹ không?”’

samedi 10 mars 2012

HẠNH NGUYỆN ĐẠI BI CỦA ĐỨC BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM



Trong kinh Pháp Hoa mà phẩm Phổ Môn được trích lục và phiên dịch ra quốc văn sau đây, Đức Phật Thích ca nói cho hàng tứ chúng nghe về hạnh nguyện đức Bồ tát Quán thế âm như sau:
"Quán thế âm nghĩa là quán sát các âm thanh giữa thế gian mà hiểu suốt hết thảy nỗi thống khổ của chúng sanh. Nếu có chúng sanh nào trong lúc lâm nạn, thiết tha kêu cầu vị Bồ tát này, tức thời Ngài quán được tiếng kêu cầu kia mà đến cứu độ". Động cơ thúc đẩy khiến có sự linh cảm giữa một bên "hô" và một bên "ứng" như thế là lòng đại bi rộng lớn của Ngài. Vì vậy, Ngài thường được tôn xưng là đức Bồ tát Đại bi Linh cảm ứng Quán thế âm.
Bồ tát là tiếng nói tắt của danh từ Bồ đề tát đỏa (boddisatva), Tàu dịch là Giác hữu tình. Bồ tát là bậc tu hành hạnh lợi tha cứu độ các loài hữu tình. Nghĩa của danh từ "giác hữu tình" là nghĩa đứng về khía cạnh công hạnh mà nói. Nếu đứng về khía cạnh trí giác, Bồ tát là những bậc đã đạt được trình độ trí tuệ rất cao siêu, duy chỉ chưa viên mãn bằng Phật mà thôi. Đến địa vị thập địa, Bồ tát đã đoạn được vô minh căn bản, chỉ còn một phần nhỏ vi tế sở tri ngu, tức vô minh vi tế, là đương trong thời kỳ gạn lọc. Đến địa vị diệu giác thì đoạn sạch vi tế tối sơ vô minh và chứng quả Vô thượng bồ đề để thành bậc Chánh biến giác Phật đà.
Như trên là định nghĩa chung các danh từ bồ tát và sự sai khác giữa đại bồ tát và Phật. Nhưng riêng về các vị cổ Phật như đức Địa Tạng hay đức Quán âm nói đây, Bồ tát tức là Phật. Sở dĩ các ngài ấy mang danh từ bồ tát là chỉ vì hạnh nguyện riêng: Các đức đại bồ tát ấy nguyện trọn đời mãn kiếp làm công hạnh bồ tát để hóa độ chúng sanh, chẳng hạn như đức Địa Tạng có lời đại nguyện rằng: "Địa ngục chưa trống không, thề chẳng thành Phật".
Đại bi nghĩa là lòng xót thương bao la rộng lớn. Theo định nghĩa chung: "Bi năng bạt khổ", bi có công năng tiêu trừ các khổ não. Hạnh nguyện của đức Quán thế âm là cứu độ hết thảy chúng sanh thoát ly ra khỏi tai ách khổ nạn: lòng thương xót của ngài rộng lớn bao la như thế nên gọi là đại bi.
Linh cảm ứng nghĩa là tác dụng giao cảm hết sức thiêng liêng của lòng đại bi. Chúng sanh đau thương rên siết kêu cầu; tiếng rên siết ấy cảm ngay đến lòng đại bi của đức Quán âm rồi lập tức có sự ứng đáp lại một cách vô cùng linh nghiệm.
Quán thế âm nghĩa là quán xét âm thanh của thế gian mà đến cứu độ, như đã giải thích ở trên. Cái diệu trí quán sát âm thanh kia đã được tóm tắt trong câu kệ:
"Sức diệu trí Quán Âm
Cứu đời thoát ly khổ"
Diệu trí nói đây tức là loại đại trí phương tiện khởi được diệu dụng lợi tha, sau khi đã chứng được hậu đắc trí. Diệu trí cũng tức là diệu dụng của căn bản trí, chứ không chi khác hơn. Vì có đủ đại trí này, nên mới có thần lực cứu khổ cho thế gian.
Giải thích danh hiệu đức Quán thế âm như trên đây, tức là đứng về phương diện "dụng" mà nói. Trong diệu dụng ấy lại có phân tách ra làm hai: Quán và Âm.
Quán là dụng của Trí. Âm là dụng của Bi.
Như trong phẩm Phổ môn dạy, đức Quán thế âm dùng diệu trí quán chơn tánh nên biết thân mình và thân chúng sanh, hết thảy đều bình đẳng không hai, hết thảy đều do một thể đại bi chung mà có sanh khởi. Quán ấy gọi là chơn quán.
Dùng diệu trí quán các tịnh pháp, biết các tịnh pháp bản lai chẳng khi nào tương ưng với nhiễm pháp và luôn luôn xa lìa cả hai chướng do ngã và ngã sở gây nên. Quán ấy gọi là thanh tịnh quán.
Đã có diệu trí tất nhiên tự tâm thanh tịnh. Dùng tự tâm thanh tịnh quán hai pháp tục đế (chân lý tương đối) và chơn đế (chân lý tuyệt đối), nhất nhất đều thấu suốt, rốt ráo, không thiếu sót một tơ hào nào. Nên gọi quán ấy là quảng đại trí huệ quán.
Diệu trí của Ngài lại còn quán biết được chúng sanh và Phật đồng thể, duy chỉ có khác nhau là tại chỗ chúng sanh bị nghiệp hoặc thao túng nên sinh ra điên đảo và phải chịu đau khổ. Vì thấy chúng sanh đau khổ một cách oan uổng như thế nên bi tâm dấy khởi khiến Ngài hằng thường nghĩ đến việc cứu độ. Quán ấy gọi là Bi quán.
Đức Quán Âm lấy bi nguyện cứu khổ làm hạnh tu duy nhất nên thường tưởng nghĩ đến các phương tiện ban vui cho chúng sanh. Tưởng nghĩ đến việc ban vui tròn đầy để thực hiện việc cứu khổ. Quán ấy gọi là Từ quán.
Năm ánh sáng quán chiếu của diệu trí "quán âm" hằng thường ở trong thể tịch tịnh vắng lặng, tức là thường tịch. Tuy thường tịch mà vẫn thường soi sáng hết thảy các chốn tối tăm nên ánh sáng quán chiếu của diệu trí kia lại cũng thường chiếu. Nhờ thường tịch và thường chiếu nên ánh sáng quán chiếu của diệu trí Quán Âm không lúc nào không có tác dụng trừ tai ách do bóng tối ngu si gây nên. Vì vậy, chúng sanh nên thường chiêm ngưỡng để nhiếp tâm và nên phát nguyện thường thời thực hành.
Năm thanh âm Từ Bi của đức Đại Bi Quán Âm chúng sanh nên thường trì niệm để huân tập hạt giống từ bi, khiến cho hạt giống ấy thể hội dần dần nơi tự tâm. Trì niệm nghĩa là xưng niệm danh hiệu ở nơi miệng và ức niệm công đức trong tự tâm. Đó là phương pháp niệm Quán Âm chơn chánh vậy.
Nói riêng về phần cảm ứng, đức Quán thế âm trong khi thực hành đại nguyện độ sanh, có đủ oai lực giải thoát bảy nạn lớn bên ngoài là các nạn: thuỷ ách, hỏa tai, gió bão, gươm đao, ác quỷ, lao tù,giặc cướp và tiêu trừ ba độc bên trong là: tham lam, sân nhuế, ngu si.
Đại nguyện độ sanh của ngài còn nhằm thỏa mãn hai điều mong cầu: cầu sanh con trai và cầu sanh con gái, thảy đều đầy đủ phước đức trí huệ.
Trong sự nghiệp độ sanh thiên sai vạn biệt, Ngài sử dụng nhiều phương tiện, hóa hiện nhiều thân, qua lại dạo khắp các phương sở. Vì vậy trong kinh có câu: "Ngài dạo khắp ta bà, Ngài nói pháp cho chúng sanh, Ngài sử dụng nhiều phương tiện". Phương tiện Ngài dùng nhiều không thể kể xiết. Song trong vô số phương tiện đại thiện xảo có ba mươi hai ứng thân và mười chín cách thuyết pháp. Kinh điển mệnh danh các phương tiện ấy là: "tam thập nhị ứng" và "thập cửu chủng thuyết pháp".
Lược tóm lại là oai lực của Ngài nổi bật nhất trong việc giải cứu bảy nạn, tiêu trừ ba độc, thỏa mãn hai cầu mong, ứng hóa ba mươi hai thân tướng và sử dụng mười chín lối thuyết pháp. Cố nhiên đó chỉ là nêu các điểm chính yếu trong công việc hóa độ của Ngài. Sự thật thệ nguyện của Ngài còn bao gồm nhiều khía cạnh khác nữa.
Mục đích duy nhất của Ngài: cứu độ chúng sanh bằng bất cứ phương tiện nào. Động cơ duy nhất của việc cứu độ: Một thể bi tâm tròn đầy rộng lớn.
Sau phẩm Phổ môn, chúng tôi xin cung lục một số sự tích nói về hóa thân của Ngài để tín đồ, tùy từng căn cơ và hoàn cảnh riêng mà "thường nguyện thường chiêm ngưỡng".
NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.
Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật (ba lần).
Chánh pháp cao siêu lý nhiệm mầu,
Trăm ngàn vạn kiếp dễ tìm đâu!
Phước duyên nay gặp xin trì tụng
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa lý sâu.

Bể cả triều dâng tiếng Phổ môn,
Chín tầng sen ngát hiện đồng chơn
Cam lồ giọt nước cành dương rải
Nhuần thấm sơn hà cảnh sắc xuân. 
Nam mô Đại bi Quán thế âm Bồ tát (ba lần).


jeudi 8 mars 2012

Sự tích về 18 vị La-hán


A La Hán là hiện thân của sự giác ngộ trong thời Phật giáo Nguyên thủy. Khác với hình ảnh của Bồ Tát, hiện thân của Phật giáo Đại thừa của thời hậu thế là hình ảnh được nhấn mạnh với mục đích giải thoát mọi chúng sinh. A-la-hán là các vị đã giải thoát 10 trói buộc thế gian như: ngã kiến, nghi ngờ, chấp đắm giới luật, tham, sân hận, sắc tham, vô sắc tham, kiêu mạn, hồi hộp không yên (trạo), vô minh. A-la-hán được xem là người đã từ bỏ ô nhiễm, bỏ các gánh nặng, đã đạt mục đích và tâm thức đã được giải thoát.
THẬP BÁT LA HÁN 
 

Sự tích 16 vị La-hán được chép trong sách Pháp Trụ Ký. Sách này do vị Đại A-la-hán Nan Đề Mật Đa La (Nandimitra) trước thuật và Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (600-664) dịch ra chữ Hán.

Ngài Nan Đề Mật Đa La (còn có tên là Khánh Hữu) người Tích Lan, ra đời khoảng năm 800 năm sau Phật Niết bàn. Theo Pháp Trụ Ký (Fachu-chi), thì Ngài chỉ lược thuật lại kinh Pháp Trụ Ký do Phật thuyết giảng mà thôi. Sách này trình bày danh tánh, trú xứ và sứ mệnh của 16 vị La-hán. Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thông và Bát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp và làm lợi lạc quần sanh. Mỗi khi các tự viện tổ chức lễ hội khánh thành, làm phúc, cúng dường trai Tăng, các Ngài cùng với quyến thuộc thường vận dụng thần thông đến để chứng minh, tham dự, nhưng chúng ta không thể nào thấy được. Hiện nay, tuổi thọ trung bình của loài người là 80 tuổi. Tuổi thọ này - theo Pháp Trụ Ký - sẽ giảm dần còn 10 tuổi là giai đoạn cuối cùng của kiếp giảm. Sau đó, sang giai đoạn kiếp tăng, tuổi thọ con người từ 10 tuổi tăng dần đến 70000 tuổi. Bấy giờ các Ngài sẽ chấm dứt nhiệm vụ và nhập Niết bàn. (Bởi vì khi tuổi thọ loài người đến 80000 tuổi thì đức Phật Di Lạc sẽ ra đời). 

Danh tánh và trú xứ của các Ngài như sau: 

1. Tân Đâu Lô Bạt La Đọa Xà (S: Pindolabharadvàja), vị tôn giả này cùng 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tây Ngưu Hóa châu. 
2. Ca Nặc Ca Phạt Sa (S: Kanakavatsa), vị tôn giả này cùng với 500 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại phương Bắc nước Ca Thấp Di La. 
3. Ca Nặc Ca Bạt Ly Đọa Xà (S: Kanakabharadvàja), vị tôn giả này cùng 600 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Đông Thắng Thân châu. 
4. Tô Tân Đà (S: Subinda), vị tôn giả này cùng với 700 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Bắc Cu Lô châu.

 
5. Nặc Cự La (S: Nakula), vị tôn giả này cùng 800 vị A-la-hán phần lớn cư trú tại Nam Thiệm Bộ châu. 
6. Bạt Đa La (S: Bhadra), vị tôn giả này cùng 800 vi A-la-hán, phần lớn cư trú tại Đam Một La châu. 
7. Ca Lý Ca (S: Kàlika), vị tôn giả này cùng với 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tăng Già Trà châu.

 
8. Phạt Xà La Phất Đa La (S: Vajraputra), vị tôn giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Bát Thứ Noa châu. 
9. Thú Bát Ca (S: Jìvaka), vị tôn giả này cùng với 900 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Hương Túy.

 
10. Bán Thác Ca (S: Panthaka), vị tôn giả này cùng với 1300 vị A-la-hán cư trú tại cõi trời 

 
11. La Hỗ La (S: Ràhula), vị tôn giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tất Lợi Dương Cù châu.

 
12. Ma Già Tê Na (S: Nàgasena), vị tôn giả này cùng với 1200 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại núi Bán Độ Ba.

 
13. Nhân Yết Đà (S: Angala), vị tôn giả này cùng với 1300 vị A Lan Hán, phần lớn cư trú tại trong núi Quảng Hiếp.

 
14. Phạt Na Bà Tư (S: Vanavàsin), vị tôn giả này cùng 400 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Khả Trụ.

 
15. A Thị Đa (S: Ajita), vị tôn giả này cùng với 1500 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Thứu Phong. 
16. Chú Trà Bán Thác Ca (S: Cùdapanthaka), vị tôn giả này cùng với 600 vị A-la-hán, phần lớn cư trú trong núi Trì Trục. 

Sau khi Pháp Trụ ký được dịch sang chữ Hán, Thiền sư Quán Hưu (832-912), vốn là một họa sĩ tài ba đã vẽ ra hình ảnh 16 vị A-la-hán. Tương truyền, nhân Thiền sư nằm mơ cảm ứng thấy được hình ảnh của các Ngài rồi vẽ lại. Những hình ảnh này ngày nay người ta còn tìm thấy tàng trữ nơi vách tường Thiên Phật động tại Đôn Hoàng thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Sau Thiền sư Quán Hưu còn có hoạ sĩ Pháp Nguyện, Pháp Cảnh và Tăng Diệu cũng chuyên vẽ về các vị La-hán. 

Vì sao 16 vị La-hán trở thành 18 vị?
Từ khi có hình ảnh 16 vị La-hán, các chùa thường tôn trí hình ảnh của các Ngài, và từ con số 16 người ta thêm tôn giả Khánh Hữu thành 17 và tôn giả Tân Đầu Lô thành 18 (nhưng không biết ai là tác giả đầu tiên của con số 18 này). 

Thật ra tôn giả Khánh Hữu (tên dịch nghĩa ra chữ Hán) vốn là Nan Đề Mật Đa La (tên phiên âm từ chữ Phạn), người đã thuyết minh sách Pháp Trụ Ký; còn Tân Đầu Lô chính là Tân Đầu Lô Bạt La Đọa Xà, vị La-hán thứ nhất trong 16 vị. Do không am tường kinh điển và không hiểu tiếng Phạn mà thành lầm lẫn như thế! 

Về sau, Sa môn Giáp Phạm và Đại thi hào Tô Đông Pha (1036-1101) dựa vào con số 18 này mà làm ra 18 bài văn ca tụng. Mỗi bài đều có đề tên một vị La-hán. Rồi họa sĩ Trương Huyền lại dựa vào 18 bài văn ca tụng của Tô Thức mà tạc tượng 18 vị La-hán, nhưng lại thay hai vị 17 và 18 bằng tôn giả Ca Diếp và Quân Đề Bát Thán. Do thế mà từ con số 16 lần hồi trở thành con số 18. Từ đời Nguyên trở đi, tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, con số 18 này được mọi người mặc nhiên chính thức công nhận, con số 16 chỉ còn lưu giữ trong sổ sách mà thôi. Nhưng, tại Tây Tạng, ngoài 16 vị trên, người ta thêm Đạt Ma Đa La và Bố Đại Hòa Thượng; hoặc thêm hai tôn giả Hoàng Long và Phục Hổ, hoặc thêm Ma Da Phu nhân và Di Lặc để thành ra 18 vị. 

Ngoài ra, còn có hai sự tích khác về 18 vị La-hán

1. Sự tích thứ nhất : được kể trong tập sách viết bằng chữ Hán của thầy Giáo thọ Hoằng Khai, trụ trì chùa Càn An, tỉnh Bình Định, vào năm Tự Đức thứ tư (1851). Theo sách này thì nước Triệu có nàng công chúa tên là Hy Đạt, vốn rất chí thành mộ đạo, nàng chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà. Năm 15 tuổi, nàng ăn một đóa hoa sen vàng rồi hoài thai đến 6 năm mới sinh ra 18 đồng tử. Các đồng tử ấy về sau được đức Quan Âm hóa độ và thọ ký để họ trở thành 18 vị La-hán. 
Nội dung sự tích này khá lý thú, tương đối có giá trị về mặt văn chương, nhưng cốt truyện lại pha trộn tinh thần Phật, Khổng, Lão nên ít có giá trị về mặt lịch sử. 

2. Sự tích thứ hai: tương truyền ngày xưa tại Trung Quốc có 18 tên tướng cướp rất hung hãn. Về sau họ hồi tâm cải tà quy chánh, nương theo Phật pháp tu hành và đắc quả A-la-hán. 
Sự tích này tương đối có ý nghĩa, nhưng lại có tính cách huyền thoại, do đó ít được người ta chấp nhận. 


Tham khảo: 
- Phật Quang Đại Tư Điển, tr.359, 394, 4791, 6787; 
- Phật học Đại Tư Điển, tr. 2844-2845; 
- Pháp Trụ Ký, Hán tạng tập 49 tr.12;
- Phật Tổ Thống Kỷ, quyển 33, Hán tạng tập 49, tr. 319; 
- Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Kinh, Hán tạng tập 14, tr.421

Sưu Tập Các Bài Tán (Chương XIII) - Hồi Hướng


CHƯƠNG MƯỜI BA: HỒI HƯỚNG - Bản Sưu Tập các Bài Tán nầy được trích trong các cổ bản Tán Sám, Nghi Thức, Hành Trì viết tay bằng hán tự và trong những bản Nghi Lễ bằng quốc ngữ. Chắc chắn có nhiều sai sót vì cựu bản giấy quá mõng lâu ngày nên chữ bị mất, bị nhem có nhiều chữ không còn đọc được.

CHƯƠNG MƯỜI BA: HỒI HƯỚNG
1. Hồi Hướng
Hồi hướng lương duyên Tam Thế Phật, 
Văn Thù Phổ Hiền Quán Tự Tại. 
Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát, 
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.

2. Dĩ Thử
Dĩ thử nghiêm tịnh, 
Công đức hồi hướng. 
Hộ pháp long thiên 
Tam giới nhạc độc 
Linh thông thủ hộ 
Già lam chơn tể 
Kỳ phước bảo an 
Bồng thiên trang nghiêm 
Vô thượng bồ đề 
Phổ nguyện pháp giới chúng sanh, 
Cộng nhập tỳ lô tánh hãi. 


Bản Sưu Tập Bài Tán nầy được trích trong các cổ bản Tán Sám, Nghi Thức, Hành Trì viết tay bằng hán tự và trong những bản Nghi Lễ bằng quốc ngữ. Chắc chắn có nhiều sai sót vì cựu bản giấy quá mõng lâu ngày nên chữ bị mất, bị nhem có nhiều chữ không còn đọc được.
Ngưỡng mong chư Tôn Đức, Quý Thầy, Quý Ni Sư, Quý Thiện Tri Thức bổ sung và sửa chửa để có một bản Bài Tán hoàn hảo có tính cách văn chương đã gói trọn tâm tư của hàng Đệ tử đối với chư Phật và lời dạy của Ngài.
Nam Mô Thường Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát
Mùa Vu Lan 2007 - Đinh Hợi 
Cư Sĩ Nguyên Hòa