Tiêu đề ảnh 1

Nội dung ảnh 1.

Tiêu đề ảnh 2

Nội dung ảnh 2.

Tiêu đề ảnh 3

Nội dung ảnh 3.

Tiêu đề ảnh 4

Nội dung ảnh 4.

Tiêu đề ảnh 5

Nội dung ảnh 5.

jeudi 15 mars 2012

Cách thức thờ Phật & thờ gia tiên


HỎI: Gia đình tôi lập bàn thờ cha mẹ đã lâu rồi từ khi cha mẹ mất đi. Nhưng vừa rồi căn nhà đó đã bán và bàn thờ ấy dời về nhà em tôi, nay tôi đã mua được nhà mới và muốn thờ cha mẹ tại nhà riêng của mình thì có phải xem ngày giờ để lập bàn thờ hay lúc nào thuận tiện thì để hình lên bàn thờ? Cách thức thế nào, mong quý báo chỉ dẫn. Bàn thờ cha mẹ tôi đặt phía dưới bàn thờ Phật (cùng nhìn về một hướng) có được không?
Chúng tôi chưa có điều kiện thờ tượng Phật, vậy có thể thỉnh tranh Phật Bà Quan Âm về thờ để hàng ngày tụng kinh niệm Phật được không? Có thể lập bàn thờ Phật cạnh bàn thờ gia tiên? Và có phải mời thầy về làm lễ an vị Phật thì sự thờ tự mới linh nghiệm?
(MỸ KHÁNH, mykhanh@sapharco.com; THÀNH LỄ, thanhle_vunga@yahoo.com)
ĐÁP:
Bạn Mỹ Khánh và Thành Lễ thân mến!
Bàn thờ Phật và bàn thờ gia tiên là không gian tâm linh không thể thiếu trong mỗi gia đình Phật tử Việt. Tùy vào hoàn cảnh và điều kiện của mỗi nhà mà chúng ta có thể thiết trí bàn thờ Phật và bàn thờ gia tiên cho thích hợp. “Tiền Phật hậu linh” là bàn thờ Phật đặt phía trước cao hơn và bàn thờ gia tiên đặt kế sau, thấp hơn bàn thờ Phật. Những gia đình có phòng thờ lớn, rộng rãi thường chọn cách thờ tự này. “Thượng Phật hạ linh” là bàn thờ Phật ở phía trên (dạng kệ gắn sát tường), bàn thờ gia tiên ở phía dưới. Cách thờ này dành cho các phòng thờ nhỏ, bàn thờ giản đơn. Ngoài ra, còn có một số cách thờ tự khác nữa nhưng nói chung, bàn thờ Phật bao giờ cũng phải cao hơn bàn thờ gia tiên để thể hiện lòng tôn kính Tam bảo.
Về cách thức thờ Phật, thờ tượng Phật (chất liệu gỗ, gốm, thạch cao, đá…) hay tranh ảnh Phật (in, chụp, vẽ, thêu…) với hình thức tượng đứng hay ngồi đều được. Quan trọng là hình ảnh Phật phải đẹp đẽ và đầy đủ các hảo tướng. Thờ vị Phật hay Bồ tát nào là do nhân duyên của mỗi người, có thể thờ Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Bồ-tát Quán Thế Âm… Bàn thờ Phật phải đủ rộng để có thể tôn trí tượng Phật, bài trí lư hương, chén nước, bình hoa, dĩa quả và luôn sạch sẽ, trang nghiêm.
Bàn thờ gia tiên có thể bài trí di ảnh của những người mất (hay linh vị cửu huyền thất tổ nói chung) cùng lư hương, chén nước, hoa quả và đủ rộng để dọn một mâm cơm cúng ông bà cha mẹ khi kỵ giỗ. Lúc dọn về nhà mới thì nhanh chóng bài trí bàn thờ để hương khói phụng thờ tổ tiên mà không cần phải xem ngày giờ. Riêng bàn thờ Phật, sau khi chúng ta thỉnh Phật về tôn trí tại tư gia, nếu hội đủ duyên lành nên thỉnh ít nhất một vị thầy về nhà làm lễ an vị đồng thời cầu an cho gia đạo. Tuy vậy, khi chưa thỉnh được thầy về an vị Phật cho gia đình thì quý vị Phật tử vẫn có thể lễ bái, tụng niệm trước bàn thờ Phật bình thường.
Chúc bạn tinh tấn!
                                                                                          Giác Ngộ Online

lundi 12 mars 2012

Mẹ ……!!!


Mẹ ……!!!

Tiếng  gọi sao thân thương thế. Từ bé thơ, con đã được người mang nặng đẻ đau, trao cho con hết tất cả tình thương.

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm bún, lưỡi lừa cá xương.

Kính lạy mẹ, bậc ân nhân vô thượng. Mẹ là tuyệt tác vĩ đại mà thiên nhiên đã ban tặng cho cuộc đời.
Nếu ai hỏi con tự hào điều gì nhất về mẹ, con sẽ hãnh diện nói rằng con tự hào nhất khi nhìn thấy gương mặt mẹ, bởi lúc đó con biết mẹ còn sống, mẹ đang bên cạnh chở che, là chỗ dựa tinh thần cho con và truyền cho con niềm tin, nghị lực trong cuộc sống, để đối mặt với cuộc đời đầy phong ba. Cuộc sống không có hạnh phúc nào bằng khi được gọi tiếng “mẹ”, ngắm nhìn mẹ cười, được ôm mẹ vào lòng và đặc biệt, được vuốt mái tóc pha gió sương của mẹ là con hạnh phúc lắm.

Mẹ! Mẹ có biết rằng con vẫn luôn ghen tị với mẹ.Vì mẹ của con có mái tóc dài mượt – còn con là con của mẹ, sao tóc con ngắn thế? Rằng con vẫn ghen tị với mẹ  là tài nấu ăn của mẹ ngon không thể chê - còn con là con của mẹ sao con  nấu chẳng được như mẹ vậy? Rằng con luôn vẫn ghen tị, mỗi khi mẹ mua quần áo mới cho em con, lúc đó chút thoáng buồn rơi trong lòng con…. Mẹ có biết, mỗi khi con buồn con luôn nhớ về mẹ, bởi hình ảnh người mẹ hiền lam lũ là động lực vực con dậy trước sóng gió của cuộc đời. Dẫu biết rằng con đường con đi không phải là con đường thẳng, nhưng con luôn tự tin vì có mẹ luôn bên cạnh con, và rồi mỗi lần con vấp ngã hình ảnh của mẹ hiện lên, lúc đó con tự nhủ với mình  “không khóc, không được khóc và không thể khóc”.  Con biết rằng, ở phương xa con luôn có mẹ cổ vũ, ôm con vào long, lau từng giọt nước mắt cho con mỗi khi con khóc.

Và mẹ có biết rằng… :con yêu mẹ nhiều lắm không?

Rồi con cứ sợ, sợ đến một ngày con không còn sống với những ghen tị, không được nhìn thấy mẹ cười, không được ăn những món mẹ nấu, không được tựa vào lòng mẹ nữa…. Con nghĩ, chắc lúc đó con sẽ không sống nổi vì không còn mẹ bên cạnh.

Mẹ! Mẹ hãy hứa với con, mẹ sẽ chăm lo cho sức khỏe mình, nha mẹ!. Con biết những cơn gió lạnh  kéo về, sẽ làm cho mẹ con đau nhức mỏi vì căn bệnh thấp khớp. Con biết, mẹ sẽ chẳng khi nào được nghỉ ngơi dù chỉ một ngày, hết việc ngoài vườn rồi tới việc trong nhà. Con biết, mẹ con đặt hết niềm tin vào chúng con. Nhưng mẹ ơi !Mẹ hãy tin rằng: chúng con luôn phấn đấu nỗ lực hết mình, bởi vì,   tương lai tốt đẹp của chúng con là động lực để kéo mẹ mãi mãi ở bên cạnh mình.

Mẹ ơi! hãy ở bên con mãi nhé, con không ghen tị nữa đâu, con chỉ cần có mẹ.
Mẹ! Mẹ hãy hứa với con, Mẹ sẽ sống đời với chúng con nha mẹ.
Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không?

“Hãy yêu khi mẹ còn biết
Đừng chờ đến lúc mẹ ra đi
Ghi lời yêu quý lên bia đá
Đá vô tri nào có nghĩa gì”.

Chúng con là Nguyên Vĩnh và Quảng Mẫn kính chúc mẹ dấu yêu và tất cả những người mẹ trên thế gian tràn đầy sức khỏe và hạnh phúc.

Xin mượn lời bài hát “Bông hồng cài áo” để tri ân đến ngày 8/3 quốc tế phụ nữ:

“Mẹ, mẹ là dòng suối dịu hiền… là bài hát thần tiên… là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối. Rồi một chiều nào đó anh về nhìn mẹ yêu,nhìn thật lâu. Rồi nói, nói với mẹ rằng “Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ có biết hay không? Biết là… biết là con thương mẹ không?”’

samedi 10 mars 2012

HẠNH NGUYỆN ĐẠI BI CỦA ĐỨC BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM



Trong kinh Pháp Hoa mà phẩm Phổ Môn được trích lục và phiên dịch ra quốc văn sau đây, Đức Phật Thích ca nói cho hàng tứ chúng nghe về hạnh nguyện đức Bồ tát Quán thế âm như sau:
"Quán thế âm nghĩa là quán sát các âm thanh giữa thế gian mà hiểu suốt hết thảy nỗi thống khổ của chúng sanh. Nếu có chúng sanh nào trong lúc lâm nạn, thiết tha kêu cầu vị Bồ tát này, tức thời Ngài quán được tiếng kêu cầu kia mà đến cứu độ". Động cơ thúc đẩy khiến có sự linh cảm giữa một bên "hô" và một bên "ứng" như thế là lòng đại bi rộng lớn của Ngài. Vì vậy, Ngài thường được tôn xưng là đức Bồ tát Đại bi Linh cảm ứng Quán thế âm.
Bồ tát là tiếng nói tắt của danh từ Bồ đề tát đỏa (boddisatva), Tàu dịch là Giác hữu tình. Bồ tát là bậc tu hành hạnh lợi tha cứu độ các loài hữu tình. Nghĩa của danh từ "giác hữu tình" là nghĩa đứng về khía cạnh công hạnh mà nói. Nếu đứng về khía cạnh trí giác, Bồ tát là những bậc đã đạt được trình độ trí tuệ rất cao siêu, duy chỉ chưa viên mãn bằng Phật mà thôi. Đến địa vị thập địa, Bồ tát đã đoạn được vô minh căn bản, chỉ còn một phần nhỏ vi tế sở tri ngu, tức vô minh vi tế, là đương trong thời kỳ gạn lọc. Đến địa vị diệu giác thì đoạn sạch vi tế tối sơ vô minh và chứng quả Vô thượng bồ đề để thành bậc Chánh biến giác Phật đà.
Như trên là định nghĩa chung các danh từ bồ tát và sự sai khác giữa đại bồ tát và Phật. Nhưng riêng về các vị cổ Phật như đức Địa Tạng hay đức Quán âm nói đây, Bồ tát tức là Phật. Sở dĩ các ngài ấy mang danh từ bồ tát là chỉ vì hạnh nguyện riêng: Các đức đại bồ tát ấy nguyện trọn đời mãn kiếp làm công hạnh bồ tát để hóa độ chúng sanh, chẳng hạn như đức Địa Tạng có lời đại nguyện rằng: "Địa ngục chưa trống không, thề chẳng thành Phật".
Đại bi nghĩa là lòng xót thương bao la rộng lớn. Theo định nghĩa chung: "Bi năng bạt khổ", bi có công năng tiêu trừ các khổ não. Hạnh nguyện của đức Quán thế âm là cứu độ hết thảy chúng sanh thoát ly ra khỏi tai ách khổ nạn: lòng thương xót của ngài rộng lớn bao la như thế nên gọi là đại bi.
Linh cảm ứng nghĩa là tác dụng giao cảm hết sức thiêng liêng của lòng đại bi. Chúng sanh đau thương rên siết kêu cầu; tiếng rên siết ấy cảm ngay đến lòng đại bi của đức Quán âm rồi lập tức có sự ứng đáp lại một cách vô cùng linh nghiệm.
Quán thế âm nghĩa là quán xét âm thanh của thế gian mà đến cứu độ, như đã giải thích ở trên. Cái diệu trí quán sát âm thanh kia đã được tóm tắt trong câu kệ:
"Sức diệu trí Quán Âm
Cứu đời thoát ly khổ"
Diệu trí nói đây tức là loại đại trí phương tiện khởi được diệu dụng lợi tha, sau khi đã chứng được hậu đắc trí. Diệu trí cũng tức là diệu dụng của căn bản trí, chứ không chi khác hơn. Vì có đủ đại trí này, nên mới có thần lực cứu khổ cho thế gian.
Giải thích danh hiệu đức Quán thế âm như trên đây, tức là đứng về phương diện "dụng" mà nói. Trong diệu dụng ấy lại có phân tách ra làm hai: Quán và Âm.
Quán là dụng của Trí. Âm là dụng của Bi.
Như trong phẩm Phổ môn dạy, đức Quán thế âm dùng diệu trí quán chơn tánh nên biết thân mình và thân chúng sanh, hết thảy đều bình đẳng không hai, hết thảy đều do một thể đại bi chung mà có sanh khởi. Quán ấy gọi là chơn quán.
Dùng diệu trí quán các tịnh pháp, biết các tịnh pháp bản lai chẳng khi nào tương ưng với nhiễm pháp và luôn luôn xa lìa cả hai chướng do ngã và ngã sở gây nên. Quán ấy gọi là thanh tịnh quán.
Đã có diệu trí tất nhiên tự tâm thanh tịnh. Dùng tự tâm thanh tịnh quán hai pháp tục đế (chân lý tương đối) và chơn đế (chân lý tuyệt đối), nhất nhất đều thấu suốt, rốt ráo, không thiếu sót một tơ hào nào. Nên gọi quán ấy là quảng đại trí huệ quán.
Diệu trí của Ngài lại còn quán biết được chúng sanh và Phật đồng thể, duy chỉ có khác nhau là tại chỗ chúng sanh bị nghiệp hoặc thao túng nên sinh ra điên đảo và phải chịu đau khổ. Vì thấy chúng sanh đau khổ một cách oan uổng như thế nên bi tâm dấy khởi khiến Ngài hằng thường nghĩ đến việc cứu độ. Quán ấy gọi là Bi quán.
Đức Quán Âm lấy bi nguyện cứu khổ làm hạnh tu duy nhất nên thường tưởng nghĩ đến các phương tiện ban vui cho chúng sanh. Tưởng nghĩ đến việc ban vui tròn đầy để thực hiện việc cứu khổ. Quán ấy gọi là Từ quán.
Năm ánh sáng quán chiếu của diệu trí "quán âm" hằng thường ở trong thể tịch tịnh vắng lặng, tức là thường tịch. Tuy thường tịch mà vẫn thường soi sáng hết thảy các chốn tối tăm nên ánh sáng quán chiếu của diệu trí kia lại cũng thường chiếu. Nhờ thường tịch và thường chiếu nên ánh sáng quán chiếu của diệu trí Quán Âm không lúc nào không có tác dụng trừ tai ách do bóng tối ngu si gây nên. Vì vậy, chúng sanh nên thường chiêm ngưỡng để nhiếp tâm và nên phát nguyện thường thời thực hành.
Năm thanh âm Từ Bi của đức Đại Bi Quán Âm chúng sanh nên thường trì niệm để huân tập hạt giống từ bi, khiến cho hạt giống ấy thể hội dần dần nơi tự tâm. Trì niệm nghĩa là xưng niệm danh hiệu ở nơi miệng và ức niệm công đức trong tự tâm. Đó là phương pháp niệm Quán Âm chơn chánh vậy.
Nói riêng về phần cảm ứng, đức Quán thế âm trong khi thực hành đại nguyện độ sanh, có đủ oai lực giải thoát bảy nạn lớn bên ngoài là các nạn: thuỷ ách, hỏa tai, gió bão, gươm đao, ác quỷ, lao tù,giặc cướp và tiêu trừ ba độc bên trong là: tham lam, sân nhuế, ngu si.
Đại nguyện độ sanh của ngài còn nhằm thỏa mãn hai điều mong cầu: cầu sanh con trai và cầu sanh con gái, thảy đều đầy đủ phước đức trí huệ.
Trong sự nghiệp độ sanh thiên sai vạn biệt, Ngài sử dụng nhiều phương tiện, hóa hiện nhiều thân, qua lại dạo khắp các phương sở. Vì vậy trong kinh có câu: "Ngài dạo khắp ta bà, Ngài nói pháp cho chúng sanh, Ngài sử dụng nhiều phương tiện". Phương tiện Ngài dùng nhiều không thể kể xiết. Song trong vô số phương tiện đại thiện xảo có ba mươi hai ứng thân và mười chín cách thuyết pháp. Kinh điển mệnh danh các phương tiện ấy là: "tam thập nhị ứng" và "thập cửu chủng thuyết pháp".
Lược tóm lại là oai lực của Ngài nổi bật nhất trong việc giải cứu bảy nạn, tiêu trừ ba độc, thỏa mãn hai cầu mong, ứng hóa ba mươi hai thân tướng và sử dụng mười chín lối thuyết pháp. Cố nhiên đó chỉ là nêu các điểm chính yếu trong công việc hóa độ của Ngài. Sự thật thệ nguyện của Ngài còn bao gồm nhiều khía cạnh khác nữa.
Mục đích duy nhất của Ngài: cứu độ chúng sanh bằng bất cứ phương tiện nào. Động cơ duy nhất của việc cứu độ: Một thể bi tâm tròn đầy rộng lớn.
Sau phẩm Phổ môn, chúng tôi xin cung lục một số sự tích nói về hóa thân của Ngài để tín đồ, tùy từng căn cơ và hoàn cảnh riêng mà "thường nguyện thường chiêm ngưỡng".
NAM MÔ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.
Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật (ba lần).
Chánh pháp cao siêu lý nhiệm mầu,
Trăm ngàn vạn kiếp dễ tìm đâu!
Phước duyên nay gặp xin trì tụng
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa lý sâu.

Bể cả triều dâng tiếng Phổ môn,
Chín tầng sen ngát hiện đồng chơn
Cam lồ giọt nước cành dương rải
Nhuần thấm sơn hà cảnh sắc xuân. 
Nam mô Đại bi Quán thế âm Bồ tát (ba lần).


jeudi 8 mars 2012

Sự tích về 18 vị La-hán


A La Hán là hiện thân của sự giác ngộ trong thời Phật giáo Nguyên thủy. Khác với hình ảnh của Bồ Tát, hiện thân của Phật giáo Đại thừa của thời hậu thế là hình ảnh được nhấn mạnh với mục đích giải thoát mọi chúng sinh. A-la-hán là các vị đã giải thoát 10 trói buộc thế gian như: ngã kiến, nghi ngờ, chấp đắm giới luật, tham, sân hận, sắc tham, vô sắc tham, kiêu mạn, hồi hộp không yên (trạo), vô minh. A-la-hán được xem là người đã từ bỏ ô nhiễm, bỏ các gánh nặng, đã đạt mục đích và tâm thức đã được giải thoát.
THẬP BÁT LA HÁN 
 

Sự tích 16 vị La-hán được chép trong sách Pháp Trụ Ký. Sách này do vị Đại A-la-hán Nan Đề Mật Đa La (Nandimitra) trước thuật và Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang (600-664) dịch ra chữ Hán.

Ngài Nan Đề Mật Đa La (còn có tên là Khánh Hữu) người Tích Lan, ra đời khoảng năm 800 năm sau Phật Niết bàn. Theo Pháp Trụ Ký (Fachu-chi), thì Ngài chỉ lược thuật lại kinh Pháp Trụ Ký do Phật thuyết giảng mà thôi. Sách này trình bày danh tánh, trú xứ và sứ mệnh của 16 vị La-hán. Các Ngài đã đạt được Tam minh, Lục thông và Bát giải thoát, vâng thừa giáo chỉ của Phật, kéo dài thọ mạng, trụ tại thế gian tại thế gian để hộ trì chánh pháp và làm lợi lạc quần sanh. Mỗi khi các tự viện tổ chức lễ hội khánh thành, làm phúc, cúng dường trai Tăng, các Ngài cùng với quyến thuộc thường vận dụng thần thông đến để chứng minh, tham dự, nhưng chúng ta không thể nào thấy được. Hiện nay, tuổi thọ trung bình của loài người là 80 tuổi. Tuổi thọ này - theo Pháp Trụ Ký - sẽ giảm dần còn 10 tuổi là giai đoạn cuối cùng của kiếp giảm. Sau đó, sang giai đoạn kiếp tăng, tuổi thọ con người từ 10 tuổi tăng dần đến 70000 tuổi. Bấy giờ các Ngài sẽ chấm dứt nhiệm vụ và nhập Niết bàn. (Bởi vì khi tuổi thọ loài người đến 80000 tuổi thì đức Phật Di Lạc sẽ ra đời). 

Danh tánh và trú xứ của các Ngài như sau: 

1. Tân Đâu Lô Bạt La Đọa Xà (S: Pindolabharadvàja), vị tôn giả này cùng 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tây Ngưu Hóa châu. 
2. Ca Nặc Ca Phạt Sa (S: Kanakavatsa), vị tôn giả này cùng với 500 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại phương Bắc nước Ca Thấp Di La. 
3. Ca Nặc Ca Bạt Ly Đọa Xà (S: Kanakabharadvàja), vị tôn giả này cùng 600 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Đông Thắng Thân châu. 
4. Tô Tân Đà (S: Subinda), vị tôn giả này cùng với 700 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Bắc Cu Lô châu.

 
5. Nặc Cự La (S: Nakula), vị tôn giả này cùng 800 vị A-la-hán phần lớn cư trú tại Nam Thiệm Bộ châu. 
6. Bạt Đa La (S: Bhadra), vị tôn giả này cùng 800 vi A-la-hán, phần lớn cư trú tại Đam Một La châu. 
7. Ca Lý Ca (S: Kàlika), vị tôn giả này cùng với 1000 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tăng Già Trà châu.

 
8. Phạt Xà La Phất Đa La (S: Vajraputra), vị tôn giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Bát Thứ Noa châu. 
9. Thú Bát Ca (S: Jìvaka), vị tôn giả này cùng với 900 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Hương Túy.

 
10. Bán Thác Ca (S: Panthaka), vị tôn giả này cùng với 1300 vị A-la-hán cư trú tại cõi trời 

 
11. La Hỗ La (S: Ràhula), vị tôn giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tất Lợi Dương Cù châu.

 
12. Ma Già Tê Na (S: Nàgasena), vị tôn giả này cùng với 1200 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại núi Bán Độ Ba.

 
13. Nhân Yết Đà (S: Angala), vị tôn giả này cùng với 1300 vị A Lan Hán, phần lớn cư trú tại trong núi Quảng Hiếp.

 
14. Phạt Na Bà Tư (S: Vanavàsin), vị tôn giả này cùng 400 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Khả Trụ.

 
15. A Thị Đa (S: Ajita), vị tôn giả này cùng với 1500 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Thứu Phong. 
16. Chú Trà Bán Thác Ca (S: Cùdapanthaka), vị tôn giả này cùng với 600 vị A-la-hán, phần lớn cư trú trong núi Trì Trục. 

Sau khi Pháp Trụ ký được dịch sang chữ Hán, Thiền sư Quán Hưu (832-912), vốn là một họa sĩ tài ba đã vẽ ra hình ảnh 16 vị A-la-hán. Tương truyền, nhân Thiền sư nằm mơ cảm ứng thấy được hình ảnh của các Ngài rồi vẽ lại. Những hình ảnh này ngày nay người ta còn tìm thấy tàng trữ nơi vách tường Thiên Phật động tại Đôn Hoàng thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Sau Thiền sư Quán Hưu còn có hoạ sĩ Pháp Nguyện, Pháp Cảnh và Tăng Diệu cũng chuyên vẽ về các vị La-hán. 

Vì sao 16 vị La-hán trở thành 18 vị?
Từ khi có hình ảnh 16 vị La-hán, các chùa thường tôn trí hình ảnh của các Ngài, và từ con số 16 người ta thêm tôn giả Khánh Hữu thành 17 và tôn giả Tân Đầu Lô thành 18 (nhưng không biết ai là tác giả đầu tiên của con số 18 này). 

Thật ra tôn giả Khánh Hữu (tên dịch nghĩa ra chữ Hán) vốn là Nan Đề Mật Đa La (tên phiên âm từ chữ Phạn), người đã thuyết minh sách Pháp Trụ Ký; còn Tân Đầu Lô chính là Tân Đầu Lô Bạt La Đọa Xà, vị La-hán thứ nhất trong 16 vị. Do không am tường kinh điển và không hiểu tiếng Phạn mà thành lầm lẫn như thế! 

Về sau, Sa môn Giáp Phạm và Đại thi hào Tô Đông Pha (1036-1101) dựa vào con số 18 này mà làm ra 18 bài văn ca tụng. Mỗi bài đều có đề tên một vị La-hán. Rồi họa sĩ Trương Huyền lại dựa vào 18 bài văn ca tụng của Tô Thức mà tạc tượng 18 vị La-hán, nhưng lại thay hai vị 17 và 18 bằng tôn giả Ca Diếp và Quân Đề Bát Thán. Do thế mà từ con số 16 lần hồi trở thành con số 18. Từ đời Nguyên trở đi, tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, con số 18 này được mọi người mặc nhiên chính thức công nhận, con số 16 chỉ còn lưu giữ trong sổ sách mà thôi. Nhưng, tại Tây Tạng, ngoài 16 vị trên, người ta thêm Đạt Ma Đa La và Bố Đại Hòa Thượng; hoặc thêm hai tôn giả Hoàng Long và Phục Hổ, hoặc thêm Ma Da Phu nhân và Di Lặc để thành ra 18 vị. 

Ngoài ra, còn có hai sự tích khác về 18 vị La-hán

1. Sự tích thứ nhất : được kể trong tập sách viết bằng chữ Hán của thầy Giáo thọ Hoằng Khai, trụ trì chùa Càn An, tỉnh Bình Định, vào năm Tự Đức thứ tư (1851). Theo sách này thì nước Triệu có nàng công chúa tên là Hy Đạt, vốn rất chí thành mộ đạo, nàng chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà. Năm 15 tuổi, nàng ăn một đóa hoa sen vàng rồi hoài thai đến 6 năm mới sinh ra 18 đồng tử. Các đồng tử ấy về sau được đức Quan Âm hóa độ và thọ ký để họ trở thành 18 vị La-hán. 
Nội dung sự tích này khá lý thú, tương đối có giá trị về mặt văn chương, nhưng cốt truyện lại pha trộn tinh thần Phật, Khổng, Lão nên ít có giá trị về mặt lịch sử. 

2. Sự tích thứ hai: tương truyền ngày xưa tại Trung Quốc có 18 tên tướng cướp rất hung hãn. Về sau họ hồi tâm cải tà quy chánh, nương theo Phật pháp tu hành và đắc quả A-la-hán. 
Sự tích này tương đối có ý nghĩa, nhưng lại có tính cách huyền thoại, do đó ít được người ta chấp nhận. 


Tham khảo: 
- Phật Quang Đại Tư Điển, tr.359, 394, 4791, 6787; 
- Phật học Đại Tư Điển, tr. 2844-2845; 
- Pháp Trụ Ký, Hán tạng tập 49 tr.12;
- Phật Tổ Thống Kỷ, quyển 33, Hán tạng tập 49, tr. 319; 
- Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sanh Kinh, Hán tạng tập 14, tr.421

Sưu Tập Các Bài Tán (Chương XIII) - Hồi Hướng


CHƯƠNG MƯỜI BA: HỒI HƯỚNG - Bản Sưu Tập các Bài Tán nầy được trích trong các cổ bản Tán Sám, Nghi Thức, Hành Trì viết tay bằng hán tự và trong những bản Nghi Lễ bằng quốc ngữ. Chắc chắn có nhiều sai sót vì cựu bản giấy quá mõng lâu ngày nên chữ bị mất, bị nhem có nhiều chữ không còn đọc được.

CHƯƠNG MƯỜI BA: HỒI HƯỚNG
1. Hồi Hướng
Hồi hướng lương duyên Tam Thế Phật, 
Văn Thù Phổ Hiền Quán Tự Tại. 
Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát, 
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.

2. Dĩ Thử
Dĩ thử nghiêm tịnh, 
Công đức hồi hướng. 
Hộ pháp long thiên 
Tam giới nhạc độc 
Linh thông thủ hộ 
Già lam chơn tể 
Kỳ phước bảo an 
Bồng thiên trang nghiêm 
Vô thượng bồ đề 
Phổ nguyện pháp giới chúng sanh, 
Cộng nhập tỳ lô tánh hãi. 


Bản Sưu Tập Bài Tán nầy được trích trong các cổ bản Tán Sám, Nghi Thức, Hành Trì viết tay bằng hán tự và trong những bản Nghi Lễ bằng quốc ngữ. Chắc chắn có nhiều sai sót vì cựu bản giấy quá mõng lâu ngày nên chữ bị mất, bị nhem có nhiều chữ không còn đọc được.
Ngưỡng mong chư Tôn Đức, Quý Thầy, Quý Ni Sư, Quý Thiện Tri Thức bổ sung và sửa chửa để có một bản Bài Tán hoàn hảo có tính cách văn chương đã gói trọn tâm tư của hàng Đệ tử đối với chư Phật và lời dạy của Ngài.
Nam Mô Thường Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát
Mùa Vu Lan 2007 - Đinh Hợi 
Cư Sĩ Nguyên Hòa


Ý Nghĩa Ba Cái Lạy Của Phật Giáo


Lạy hay còn gọi là Lễ Bái, là nghi thức rất phổ thông trong dân gian, mang ý nghĩa bày tỏ lòng biết ơn và niềm tôn kính đến với các đấng thần linh, các bậc tiên hiền có công khai phá giang sơn, bảo vệ sơn hà xã tắc, và tổ tiên dòng họ tiếp nối. Dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hoá Trung Hoa, nên việc lễ lạy, từ hình thức đến nội dung, từ lễ tổ tiên ông bà ở nhà cho đến lễ lạy Trời, Phật, Thánh, Thần ở đình, chùa, lăng, miếu cũng đều bị ảnh hưởng theo.
Hầu hết các tôn giáo đều có lễ lạy nhưng với nghi thức và ý nghĩa khác nhau. Với Phật Giáo, ý nghĩa và cách thức lễ lạy khác với các đạo giáo khác. Đạo Phật bắt nguồn từ Ấn Độ. Tại xứ này ngày xưa, dân chúng thường bày tỏ lòng tôn kính chân thành đến một người nào đó họ ngưỡng mộ kính mến bằng cách quỳ xuống sát đất, đặt trán mình lên chân của vị ấy. Đức Phật là vị Đạo Sư, là bậc giác ngộ được tôn kính đặc biệt tại xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Lúc đức Phật còn tại thế, mỗi lần nghe pháp hay thưa thỉnh việc gì, chư Tăng thường chắp tay lạy ba lạy rồi thưa hỏi hay ngồi nghe pháp. Đức Phật mặc nhiên chấp nhận cung cách này như là một tục lệ có từ lâu đời của xã hội Ấn Độ. Tuy vậy Ngài cũng không đặt thành nghi thức lễ lạy mà để tùy tâm các đệ tử. Sau khi Phật Niết Bàn, hình thức lễ nghi và sự tôn kính ấy vẫn được duy trì trong các hàng đệ tử của Ngài. Sự duy trì hình thức ấy với mục đích là luôn luôn xem đức Phật như còn tại thế. Chư Tăng mỗi khi tụng kinh ôn lại lời Ngài dạy, phải mặc áo cà sa tức áo mầu hoại sắc trang nghiêm, lạy Phật ba lạy. Hàng đệ tử tại gia cũng theo quý chư Tăng lạy Phật như thế.
Tại sao lại lạy ba lạy mà không lạy hai lạy, bốn lạy hay năm lạy? Ba lạy chính là lễ lạy ba ngôi quý báu tức Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng. Người đời thường xem vàng, bạc, kim cương, hột xoàn, dollars, và danh lợi thế gian là quý báu. Nhưng thực tế cho biết những thứ này không đem lại hạnh phúc chơn thực, không cứu được con người thoát khỏi sinh lão bệnh tử. Nhưng với ba ngôi quý báu Tam Bảo: Phật, Pháp, và Tăng có năng lực dẫn dắt con người thoát khỏi mọi phiền não và ra khỏi sinh tử luân hồi.
Phật là Giác, là thức tỉnh ra khỏi giấc ngủ mê. Đức Phật là người đã giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. Ngài là một bậc đạo sư, một người chỉ lối dẫn đường cho mọi chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi. Vì thế người Phật tử lạy cái lạy đầu tiên là để tỏ lòng thành kính, ngưỡng mộ và nhớ ơn Phật, cùng là thề nguyện sẽ theo gương Ngài mà tu hành để về bến giác. Pháp là những lời Phật dạy các đệ tử, sau đó được ghi bằng chữ, gọi là Kinh và Luật. Còn Luận là những lời bàn luận của các vị Bồ tát, đệ tử của Phật để làm sáng tỏ thêm những lời Phật dạy. Vì thế người Phật tử lạy cái lạy thứ hai là lạy Pháp bảo nhằm bày tỏ lòng thành kính, biết ơn và tưởng nhớ đến những lời dạy của Phật, những lời dạy mà, nếu chúng ta thực hành sẽ có công năng đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bến bờ giải thoát. Tăng là một đoàn thể sống chung với nhau ít nhất là bốn người, bỏ nhà xuất gia đi tu, giữ đầy đủ giới luật của Phật đặt ra, với mục đích tu hành giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh. Vì thế cái lạy thứ ba là lạy Tăng Bảo, từ các vị Thánh Tăng xuất thế đến các vị Tỳ Kheo trụ thế tu hành chân chính, đạo đức trong sạch, và giới luật trang nghiêm, để tỏ lòng thành kính và biết ơn những vị này đã sống đời sống lý tưởng, đã hy sinh gia đình tiền của và danh vọng, đã xem tiền bạc châu báu như rắn độc, danh lợi như đôi dép rách, sắc đẹp như cạm bẫy, ăn ngon mặc đẹp như xiềng xích trói buộc, để tình nguyện thay Phật dẫn dắt chúng sinh trên đường đạo.
Ngoài ý nghĩa lễ lạy Phật, Pháp và Tăng nêu trên, ba cái lạy cũng còn mang ý nghĩa lễ lạy ba ngôi qúy báu bên trong chúng ta và trong mỗi chúng sinh, vì chúng sinh cùng chư Phật đồng một thể tánh sáng suốt (Phật tánh), đồng một pháp tánh từ bi và bình đẳng (Pháp tánh), và đồng một đức tánh thanh tịnh, hòa hợp (Thanh tịnh tánh).
Về cung cách lạy cũng có nhiều thứ. Người Ấn Độ cũng như Trung Hoa có nhiều cách lễ lạy khác nhau. Riêng Phật giáo Việt Nam thường lạy theo phương cách "Ngũ thể đầu địa", tức là làm thế nào cho hai tay, hai chân và cái đầu đụng mặt đất. Đây là một phương cách lạy tôn kính nhất trong tất cả các cung cách lễ lạy. Khi lễ lạy, người Phật tử đứng ngay thẳng, hai chân khép sát vào nhau, hai bàn tay chắp sát lại nhau cho khít theo thế hiệp chưởng (không phải thế hình búp sen) tiêu biểu cho sự nhất tâm. Khi lạy Phật có người để hai tay trước ngực lạy xuống. Cũng có người đưa hai tay lên trán rồi mới lạy xuống theo phương cách ngũ thể đầu địa, tức là khi lạy phải quỳ xuống, ngửa hai bàn tay ra như đang nâng hai chân Phật và cúi lưng xuống đặt trán mình lên trên hai lòng bàn tay. Đối với phụ nữ, thường là quì thẳng lưng rồi lạy, chứ không đứng, vì hình thể đặc biệt của phụ nữ, khác với nam giới nên thế đứng thẳng trông hơi lộ liễu.
Trong đạo Phật bao giờ sự và lý cũng phải viên dung. Về sự thì như trên chúng tôi đã trình bày. Chúng ta lạy Tam Bảo với tất cả thân tâm thành kính nhớ ơn, thành kính nhớ ơn Phật, thành kính nhớ ơn Pháp, và thành kính nhớ ơn Tăng. Thế còn cái tâm của chúng ta trong khi lạy phải như thế nào? Nghĩ ngợi gì? Tưởng nhớ đến ai, đến cảnh gì, vật gì? Hay là để tâm không nghĩ ngợi, không cầu mong điều gì? Để trả lời câu hỏi này, thiết tưởng chúng ta hãy nhớ lại bài kệ "Quán Tưởng" mà chúng ta thường tụng trước khi đảnh lễ:
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch, 
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì, 
Ngã thử đạo tràng như Đế Châu, 
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung, 
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, 
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.

Đã được dịch ra là:
Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng, 
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn, 
Lưới đế châu ví đạo tràng, 
Mười phương Phật hiện hào quang sáng ngời, 
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện, 
Cúi đầu xin thề nguyện quy y.

Như thế thì bản chất Phật và chúng sinh vốn là "không tịch" lặng lẽ, tạm gọi là chân tâm. Chỉ từ khi bắt đầu khởi niệm, là bắt đầu bị cuốn vào dòng vô minh, rồi thức mới hoạt động, mới suy nghĩ, mới phân biệt ra cái "ta" (năng) và cái "không phải ta" (sở), mới nảy sinh ra tình cảm yêu ghét, tạo nghiệp, trả quả, xoay chuyển trong vòng sinh tử không thấy đường ra.
Phật thương xót chúng sinh mê muội "... trong trí bồ đề mà không thanh tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc..." (Lời sám hối), mới dậy cho chúng sinh tu hành để chấm dứt cái vòng luẩn quẩn đó bằng cách trì giới, tham thiền, niệm Phật, trì chú, mục tiêu đều để giảm bớt sự hoành hành của con vượn tâm, con ngựa ý, giảm bớt những thói quen chấp trước, phân biệt, yêu ghét, từ từ đi tới định tâm. Khi tâm đã "định" thì trí huệ bát nhã mới có dịp hiển lộ, mới được hưởng mùi vị cam lồ của Phật Pháp. Đó là điểm đặc biệt của đạo Phật. Nếu chỉ dậy con người ăn hiền ở lành thì nhiều tôn giáo khác đã làm, đức Phật thị hiện ra đời là dư, không có gì đặc biệt đáng được tôn là Đấng Đại Giác. Chính là vì Ngài đã "nhận" được cái tánh "không tịch" và tự mình dẫn đường cho chúng sinh trong suốt 49 năm, còn để lại kinh sách làm bản đồ cho đời sau nương theo tu tập mà trở lại được cái tánh "không tịch" ấy.
Kẻ nội thù dìm ta trong dòng vô minh chính là cái tâm sinh diệt suy nghĩ liên miên này. Cho nên nếu muốn báo đền ơn Phật, vâng lời Phật thì ít nhất là trong khi lễ lạy phải tuân theo lời Phật dạy, không suy nghĩ gì cả, chỉ theo dõi hành động mà thôi, lễ xuống thì chỉ biết là lễ xuống, đứng lên thì chỉ biết là đứng lên, chắp tay thì chỉ biết là chắp tay, v..v... không có nghĩ đến bất cứ ai, không tưởng nhớ đến bất cứ cái gì. Hễ một niệm tưởng dấy lên là ô nhiễm rồi, là hết "không tịch" rồi, là từ "nhất niệm vô minh" trôi lăn vào dòng vô minh miên viễn rồi.
Nói tóm lại, "Năng lễ, sở lễ tánh không tịch", nghĩa là người lạy và đấng mình lạy, thể tánh đều vắng lặng bình đẳng. Thật tướng vạn pháp đều thể hiện một cách bình đẳng, không phân biệt, không thấy có mình lạy và người để cho mình lạy. Nếu khi lạy mà tâm còn vướng mắc một chút xíu mong cầu, hay một chút tơ tưởng đến dòng họ tổ tiên, dù mỏng như một sợi tơ cũng không đúng phép. Tâm phải ở trạng thái thanh tịnh vắng lặng. Phật giáo Việt Nam đã thực hiện phép lý lạy này từ ngàn xưa, thiết tưởng không có phép nào đầy đủ ý nghĩa và hợp với lý Bát Nhã hơn.
Tham Chiếu:

Xin sám hối nghiệp sát


Ta  ảo  tưởng  ăn  nhiều  thịt  bổ
Nào  ngờ  đâu  nổi  khổ  mãi  vây  quanh
Nợ  trả  vay,  vay  trả  hẵn  xoay  vần
Ta  sướng  miệng  nào  mấy  khi  thương  xót
Khi  sát  vật,  vật  vẩy  vùng  than  khóc
Nay  hiểu  rằng  khoái  khẩu  ấy  là  sai
Xin  sám  hối  nguyện  trường  trai  ( chay  tịnh  )
Sát  sanh  vật  đế  một  thời  lâm  bịnh
Mới  hiểu  ra  quy  luật  có  quả  nhân
Từ  Tổ  Tiên  ta  tạo  nghiệp  sát  sai  lầm
Ta  nghĩ  lại  giá  như  mình  con  vật  ? !
Xin  kính  lạy  mười  phương  chư  Phật
Bày  cho  con  diệu  Pháp  phá  mê  lầm
Cho  con  vững  tin  tình  thương  yêu  vạn  loại  !

Vô  Danh  (  Jan.  10  ,  2012  )

Kính Dâng Hương Hồn Mẹ - Sơn Trà


Mẹ đã mất con ở nơi xa xứ
Ước gì về được đội mảnh khăn tang
Nói đôi câu để cảm tạ họ hàng
Khóc vài tiếng, tỏ ra con chí hiếu.

Chín ba tuổi, một cuộc đời bận bịu
Tám đứa con, lo liệu chuyện học hành
Mẹ gánh con đi, không tản lạc buổi chiến tranh
Nhưng chẳng sum họp khi hòa bình trở lại.

Đứa lên núi học khôn khi ở trạị
Đứa ở nhà lỡ dại..chạy ra khơi
Biển mù tăm, ánh sáng ở cuối đời
Cháu nội ngoại chưa hiểu đời.. biển khổ!

Đời của Mẹ nhiều sóng rền thác đổ
Nay được về trong ngôi mộ bình yên
Đồi uy nghi, hổ phục giữa thiên nhiên
Nơi vĩnh cữu, mẹ tìm miền an lạc.

Mẹ đã mất nhưng linh hồn không mất
Còn vĩnh hằng trong cõi thật chơn như
Gương hy sinh cùng với sự nhơn từ
Ở mãi mãi với năm tư ( 54) con cháu chắt.

Mẹ đã mất, con còn nơi xa lắc
Không chạy về để quỳ gối dâng hương
Nước mắt khô, ước gì khóc bình thường
Để giải tỏa nỗi đau thương ly biệt.

Sơn Trà

Khung Trời Nhớ Mẹ


Phượng Hồng chín đỏ đầy cây
Nhớ sao là nhớ những ngày ấu thơ
Mẹ già một bóng bơ vơ
Nơi xa mong nhớ trông chờ con yêu
Ngày xưa con nghịch phá nhiều
Đâu biết rằng mẹ cũng điêu đứng lòng
Ngày xưa dẫu đục dẫu trong
Mẹ luôn lo lắng cho chồng cho con
Chỉ mong con được lớn khôn
Chỉ mong đói rét không còn ghé sang
Mẹ luôn chăm chút dịu dàng
Ân cần nhân hậu... cả làng đều khen
Mẹ như trăng giữa đêm đen
Soi đời con sáng tu rèn đức nhân
Một năm qua một mùa xuân
Tuổi mẹ thêm lớn, tóc dần bạc phau
Nhìn mẹ lòng dạ con đau
Chân chim khóe mắt phai màu thời gian
Một đời sống với gian nan
Một đời mẹ phải lo toan gánh gồng
Mẹ ơi! mẹ biết hay không
Thương mẹ con giữ trong lòng mà thôi
Chẳng hé răng nói một lời
Nhưng tình thương ấy có vơi bao giờ
Hôm nay con viết vần thơ
Là lời của đứa con khờ mẹ đây
Thật tâm con ước sau này
Mẹ luôn mạnh khỏe những ngày bên ba
Niềm vui tràn ngập trong nhà
Cháu con đông đúc cả nhà yên vui
Con mong nhìn thấy nụ cười
Xuân nay lại đến...mẹ ơi...con về
Tác giả: Thơ Tình

Ý nghĩa chắp tay và niệm Nam Mô A Di Đà Phật khi gặp nhau chào hỏi


A Di Đà Phật kính thưa quý Pháp hữu trong thời gian gần đây có nhiều Phật tử hỏi Trí Giải về vấn đề ý nghĩa tại sao trong truyền thống Phật giáo khi gặp nhau chắp tay chào và niệm Nam Mô A Di Đà Phật với ý nghĩa gì? Hôm nay Trí Giải xin chia sẻ đến quý Pháp hữu nào chưa hiểu thì trao đổi về vấn đề này:
Thông thường ở thế gian khi mọi người gặp nhau bắt tay, chào hỏi với những câu chào thông thường hằng ngày, chào bạn!!!, chào chú, chào anh, chào chị, và hỏi thăm Bạn khỏe không? dạo này làm ăn ra sao???.., xong rồi chúc bạn một ngày an lành hạnh phúc, nhiều măn mắn...
Còn trong Phật giáo chắp tay là một cách chào nhau của người con Phật, cách chào này thật đẹp. Sự lễ nghi chào hỏi, tùy theo tập tục của mỗi quốc gia và tôn giáo mà có khác nhau. Riêng về Phật giáo, chắp tay chào nhau niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật có những ý nghĩa sau:
1. Ý nghĩa cúi đầu: trước một người đối diện là thể hiện đức tính khiêm cung (khiêm nhường) hạ bản ngã của mình xuống trước khi nói chuyện người khác, thể hiện lòng tôn trọng, và nghiêng mình chào Phật tính của đối phương
2. Ý nghĩa chắp tay để trước ngực ngay tim là để thể hiện lòng thành thật của mình và chắp hai tay như đóa sen. Đóa sen biểu trưng cho sự thanh tịnh, đóa sen đặt ngay tim biểu trưng cho Phật tánh của mỗi người, và để trước ngực là nương tựa vào hơi thở trao cho nhau tình người trước khi nói chuyện.Hai người đều hướng mắt về bàn tay của đối phương có hình hoa sen. Đây là một sự đánh thức Bồ đề tâm và nhắc lẫn nhau để mỗi người nhớ lại tâm nguyện của mình. Lúc nào cũng không quên vị Giáo Chủ mà trong tương lai mình sẽ gặp lại Ngài (Phật A Di Đà) Đồng thời, cũng đánh thức tâm thiện của mỗi người, vì mỗi người đều sẵn có tánh Phật. Cho nên trong Kinh Pháp Hoa có vị Thường Bất Khinh Bồ Tát đi đến đâu gặp người khác đều chắp tay lại và nói “Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài sẽ là Phật” nhắc nhở đối phương luôn chánh niệm tu hành diệt trừ phiền não chúng ta sẽ thành Phật, vì mỗi người ai cũng sẵn có Phật tâm, chỉ cần chịu khó nhìn lại và cố gắng tu hành dứt trừ hết vô minh phiền não, thì sẽ đạt được Phật quả. Đó là một hạnh nguyện của Bồ tát luôn thức nhắc cho mọi người nhớ lại ông Phật của chính mình
cho nên khi chúng ta chắp tay phải chắp đầy đủ hai tay, trừ khi một tay chúng ta bận xách đồ…
3. Còn niệm Nam Mô A Di Đà Phật bởi vì danh hiệu đức Phật A Di Đà có ba nghĩa
a) Nam Mô = Cung kính, kính trọng, kính chào
b) A Di Đà Phật = có 3 nghĩa: Vô lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức. Cho nên trong Phật giáo dùng danh hiệu Phật A Di Đà để chào hỏi và chúc phúc cho người đối diện mình đang tiếp xúc, để thể hiện tính khiêm cung và kính trọng trước Phật tánh của mỗi người và cúi đầu là hạ cái bản ngã xuống trước khi nói chuyện và chúc cho nhau được Vô lương quang (trí tuệ vô lượng) Vô lượng thọ (sống lâu vô lượng) Vô lượng công đức (chúc cho phước đức nhiều vô lượng) trong cuộc sống

SỨC MẠNH CỦA LÒNG TỪ BI


Tác giả : Đức Đạt Lai Lạt Ma 
Biên dịch: Lê Tuyên - Hiệu đính: Lê Gia

BƯỚC THỨ NĂM 
SỨC MẠNH CỦA LÒNG TỪ BI

Lòng từ bi là một tâm hồn thấm đẫm sự ngưỡng mộ biết ơn 
dành cho tất cả mọi sinh linh. 
Nhờ có lòng từ bi này mà bạn có thể đạt được tất cả mọi mục tiêu cần tìm đến.

NAGARJUNA, trích từ cuốn Những lời khuyên quý báu.
Cùng với lòng yêu thương, lòng từ bi là một mặt của lòng vị tha. Đó là tình cảm xuất hiện từ đáy lòng khiến bạn không thể chịu được khi nhận thấy đau khổ của người khác mà không làm gì để giúp họ. Khi lòng từ bi phát triển mạnh mẽ hơn thì lòng tự nguyện muốn hiến mình vì ích lợi của tất cả mọi người khác cũng sẽ phát triển. Đây là sự phục vụ mọi người một cách không thiên vị. Trong quá trình tự nguyện này, bạn nhận thấy rằng qua việc đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn, cuối cùng bạn có thể đáp ứng niềm hy vọng của tất cả mọi người trong vòng tay yêu thương của bạn. “Tôi sẽ làm bất cứ những gì tôi có thể để đạt được sự giác ngộ vì lợi ích của họ”, bạn quyết định như thế. Lòng từ bi là một nền tảng vững chắc cho việc đạt được sự giác ngộ cao nhất nhằm trợ giúp tất cả mọi sinh linh.
Lòng từ bi bao la là căn nguyên của hành động vị tha là tác nhân tạo ra những hành động cao đẹp đến phi thường trên thế gian; chẳng có nguồn trợ giúp và nguồn hanh phúc nào to lớn hơn lòng từ bi cao cả. Khi bạn có được lòng từ bi, bạn sẽ được tự do thoát khỏi tất cả mọi khắc khoải trong lòng. Bạn hãy phát triển lòng từ bi và bạn trở thành một người bạn của tất cả mọi sinh linh.
LÒNG TỪ BI LÀ HẠT GIỐNG, 
NƯỚC VÀ VỤ MÙA

Lòng từ bi được xem là hạt mầm tạo ra một mùa gặt bội thu, 
Được xem là nguồn nước cho sự phát triển, 
Và là trạng thái chín muồi của mọi niềm vui sướng. 
Thế nên, tôi luôn tôn sùng lòng từ bi

CHANDRAKIRTI
Lòng từ bi là yếu tố quyết định trong toàn bộ bài luyện tập tâm linh ngay ở giai đoạn đầu, giai đoạn giữa và giai đoạn cuối. Nó giống như hạt mầm để đưa bạn đến với sự giác ngộ cuối cùng. Bạn cần có nước, đất và chất dinh dưỡng để có thể tạo nên một vụ mùa – gạo, bắp, lúa mì hay lúa mạch. Một hạt bắp chỉ có thể tạo ra một cây bắp và không thể tạo ra một cây lúa mì, thế nên nó là tác nhân phi thường tạo ra bắp. Tương tự như thế, một động cơ thúc đẩy lòng từ bi là một tác nhân phi thường đưa đến sự giác ngộ cuối cùng và thế nên nó trở thành nền tảng cơ bản cho bài luyện tập tâm linh, giống như một hạt mầm. Đó là ở giai đoạn đầu.
Ở giai đoạn giữa, khi bạn đưa lòng vị tha vào bài luyện tập của mình, bạn phát hiện rằng thật không dễ chút nào trong việc trợ giúp ngay cả chỉ một sinh linh nào đó vượt qua được một đau khổ nào đó, để làm được việc này bạn cần phải có sự nỗ lực liên tục. Bạn có thể trở nên mệt mỏi và nản lòng, nhưng nếu bạn liên tục phát triển lòng từ bi, bạn sẽ không đánh mất lòng vị tha mà bạn đã phát triển được trước đó. Nếu bạn giữ được lòng từ bi của mình trong khi bạn đối mặt với những hoàn cảnh khó khăn thì nghị lực của bạn cũng tự nhiên phát triển vững mạnh. Đây chính là tầm quan trọng của lòng từ bi trong giai đoạn giữa; nó giống như nước nuôi dưỡng các phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn bạn, đưa bạn đến với sự giác ngộ hoàn toàn.
Sự giác ngộ hoàn toàn có nghĩa là trong bạn liên tục xuất hiện lòng từ bi bao là; thế nên bạn sẽ không còn là một người đơn độc, mà bạn sẽ liên tục tham gia thực hiện tất cả những gì có thể vì ích lợi của mọi sinh linh. Đây chính là tầm quan trọng của lòng từ bi ở giai đoạn cuối.
Sự quan tâm đến mọi người là sự sẵn lòng gánh vác trách nhiệm giúp đỡ họ đạt được niềm hạnh phúc của chính họ. Tại Tây Tạng, khi tôi được hơn ba mươi tuổi, biết rằng sự giác ngộ là điều có thể đạt được và sau khi đã tham gia bài luyện tập Hướng dẫn sống đời Bồ Tát của Shantideva, tôi có thể cảm nhận được phát triển mạnh mẽ, tôi cũng phát triển được thái độ tự tin trong khi thể hiện lòng vị tha của mình mỗi khi có dịp. Kể từ đó trở đi tôi liên tục tiến bộ hướng đến mục tiêu giác ngộ.
MỞ RỘNG PHẠM VI QUAN TÂM ĐẾN MỌI NGƯỜI
Bạn trau dồi lòng từ bi dành cho ai? Câu trả lời là “Dành cho tất cả mọi người” bởi vì tất cả mọi người đều đang chịu một số hình thức đau khổ nào đó. Trong các bài thiền định trước đây bạn đã phát triển lòng thương mến dành cho mọi người. Trước tiên bạn ý thức rõ rằng bạn và họ, tất cả đều mong muốn được hạnh phúc và không muốn chịu đau khổ; sau đó bạn biết rằng trong vô số những kiếp trước của tất cả mọi người đã từng là những người bạn tốt nhất của mình, họ giúp đỡ bạn một cách tự nguyện và vui vẻ; cuối cùng bạn nhận thấy rằng sự thực là tất cả mọi người đều cung cấp cho bạn những dịch vụ thiết yếu, những nhu cầu thiết yếu nhằm giúp đỡ bạn, dù rằng họ có chủ định hay không. Nếu bạn không có được sự đồng cảm này thì khi bạn cố gắng tìm hiểu đau khổ của người khác qua đau khổ của chính mình, khi đó có thể thậm chí bạn còn cảm thấy hài lòng khi nhận nghĩ về đau khổ của kẻ thù của mình.
Cách đây nhiều thế kỷ, một vị thầy tăng tỏ ra vui vẻ khi nghe nói rằng một vị thầy tăng  khác mà ông ta không thích đã kết hôn, điều này vi phạm vào các lời thề nguyền của giới tăng lữ. Vị thầy tăng vui vẻ này pha trà và mời một vài người bạn khác của mình đến, ông ta nói với họ rằng “Tôi có một tin vui để nói với các bạn đây. Người ta nói rằng vị tăng đó đã cưới vợ rồi”. Khi người thầy của vị tăng này bước vào và biết được điều gì đã xảy ra, ông ta nói “Kẻ ngôi lê đôi mách này đã tích lũy thêm nghiệp chướng tiêu cực khi tỏ ra thích thú vì việc một thầy tăng khác đã vi phạm lời thề nhiều hơn so với mình”. Theo lời Tsongkhapa  nói:
Khi một người không giúp ích gì cho bạn cũng chẳng hề gây hại cho bạn đang chịu đau khổ, bạn thường tỏ ra dửng dưng với anh ta. Thái độ này là do bạn nghĩ rằng mình chẳng có quan hệ gì với anh ta cả.
Tuy nhiên, khi bạn trông thấy một người bạn của mình đang chịu đau khổ, khi đó bạn cảm thấy khó có thể chịu được và mức độ khó chịu này sẽ gia tăng tùy thuộc vào mức độ quan hệ giữa bạn và người đó. Thế nên, điều quan trọng là bạn cần phải phát huy một ý thức mạnh mẽ về tình cảm yêu thương trìu mến dành cho tất cả mọi người.
Bất luận họ giàu hay nghèo, khỏe mạnh hay đau ốm, già hay trẻ thì điều cốt lõi là bạn cần phải nghĩ về những người dường như chẳng hề chịu đau khổ gì cả nhưng thực ra thì họ đang thực hiện những hành vi có khả năng dẫn đến những đau khổ cho họ về sau. Bạn cần mở rộng ý thức này và trải rộng lòng từ bi của mình đến với những người đã từng có những hành vi sai lạc trong quá khứ, đã từng trau dồi nghiệp chướng tiêu cực trong quá khứ. Mặc dù tác động của nghiệp chướng của họ vẫn chưa được thể hiện ngay lúc này nhưng rồi đây nghiệp chướng của họ sẽ gây ra những đau khổ cho họ trong tương lai về sau, chẳng hạn như họ sẽ mắc phải chứng ung thư hoặc một đau khổ nào đó đại loại như thế.
Các bước thiền định
Vì bạn dễ dàng phát huy lòng từ bi dành cho bạn bè của mình hơn, thế nên bạn hãy khởi đầu cùng một người bạn thân nhất của mình.
1. Bạn hãy hình dung một người bạn đang chịu đau khổ và bạn hãy nghĩ rằng:
Giống như mình, người này cũng muốn được hạnh phúc và không muốn chịu đau khổ thế nhưng anh ta đang bị đau khổ hành hạ. Mong sao anh ta có thể thoát ra được mọi đau khổ và mọi nguyên nhân tạo ra đau khổ!
Bạn hãy tìm hiểu phân tích về những đau khổ mà anh ta đang phải gánh chịu mãi cho đến khi trong bạn có cảm xúc mạnh mẽ rằng “Sẽ thật tuyệt biết bao nếu anh ta có thể được tự do thoát ra khỏi mọi đau khổ” và cảm xúc này vẫn đọng lại trong bạn mà không cần bạn phải tập trung suy nghĩ gì cả. Khi cảm xúc này suy yếu, bạn hãy suy nghĩ nhiều hơn về việc anh ta đang chịu đau khổ như thế nào và khi suy nghĩ này cấu thành lòng thương xót trong bạn và giúp bạn có được mong ước sao cho anh ta thoát khỏi đau khổ, khi đó bạn hãy cố gắng duy trì nó. Bài tập này được gọi là bài luyện tập luân phiên giữa Thiền định Cố định và Thiền định Phân giải. Bạn hãy liên tục vận dụng hai bước này, phân tích và duy trì, luân phiên vận dụng chúng mãi cho đến khi vảm xúc cảm thông xuất hiện mạnh mẽ trong tâm hồn bạn.
2. Bạn hãy hình dung một người bạn, anh ta sẽ chịu đau khổ trong tương lai do những hành vi tiêu cực của anh ta trong hiện tại, những hành vi tiêu cực của anh ta là những hành vi mà tất cả chúng ta đều tham gia thực hiện trong khoảng thời gian bất tận này. Bạn hãy suy nghĩ rằng:
Giống như mình, người này cũng muốn được hạnh phúc và không muốn chịu đau khổ thế nhưng anh ta đang bị đau khổ hành hạ. Mong sao anh ta có thể thoát ra được mọi đau khổ và mọi nguyên nhân tạo ra đau khổ!
Sau đó bạn luân phiên vận dụng Thiền định Cố định và Thiền định Phân giải.
3. Bạn chầm chậm mở rộng suy nghĩ của mình đến với từng người một, đầu tiên là bạn bè, sau đó là những người xa lạ và kế đến là với kẻ thù của mình, cuối cùng là toàn thể mọi sinh linh trong vũ trụ này.
Bạn hãy mở rộng phạm vi thiền định của mình đến mức bạn không còn bị giới hạn ở mức độ chỉ mong ước cho một vài người được giải thoát khỏi một số đau khổ hoặc chỉ mong ước rằng tất cả mọi người  được giải thoát khỏi một số đau khổ đó mà thôi. Lòng mong ước vì lợi ích của mọi người không mang tính cục bộ thiên vị - đó là lòng mong ước chân thành rằng mọi và mỗi người đều được giải phóng thoát ra khỏi mọi đau khổ và mọi nguyên nhân dẫn đến đau khổ.
KỸ THUẬT THIỀN ĐỊNH NGẮN GỌN
Cũng sẽ rất hữu ích nếu bạn hình dung một con vật bơ vơ – một sinh linh có khả năng bị giới hạn và không có người bảo vệ che chở - trong hoàn cảnh thiếu thốn cơ cực. Bạn hãy hình dung con vật đó đang đứng trước mặt mình và bạn suy nghĩ về những gì có thể xảy ra khi mình ở trong hoàn cảnh của nó. Bạn suy nghĩ rằng:
Nếu mình ở trong địa vị của con vật đáng thương này thì liệu mình có thể chịu được hay không?
Bạn hãy cố gắng cảm nhận mọi suy nghĩ của tất cả mọi sinh linh. Bài Thiền định hình dung này sẽ rất hữu ích trong việc giúp bạn nâng cao và mở rộng lòng từ bi của mình.
LÒNG TỪ BI SÂU SẮC
Khi bạn đã có được một số tiến bộ, bạn hãy nâng cao sức mạnh của lòng từ bi bằng cách chuyển từ “Mong sao anh ta có thể thoát ra được mọi đau khổ và mọi nguyên nhân đau khổ!” sang “Mong ước sao cho anh ta có thể thoát ra được mọi đau khổ và mọi nguyên nhân tạo ra đau khổ!”
1. Bạn hãy hình dung một người bạn đang chịu đau khổ và bạn hãy nghĩ rằng:
Giống như mình, người này cũng muốn được hạnh phúc và không muốn chịu đau khổ thế nhưng anh ta đang bị đau khổ hành hạ. Mong sao anh ta có thể thoát ra được mọi đau khổ và mọi nguyên nhân tạo ra đau khổ!
Rồi bạn vận dụng luân phiên bài luyện tập Thiền định Cố định và Thiền định Phân giải.
2. Bạn hãy hình dung một người bạn, anh ta sẽ chịu đau khổ trong tương lai vời những hành vi tiêu cực của anh ta trong hiện tại, những hành vi tiêu cực của anh ta là những hành vi mà tất cả chúng ta đều tham gia thực hiện trong khoảng thời gian bất tận này. Bạn hãy suy nghĩ rằng:
Giống như mình, người này cũng muốn được hạnh phúc và không muốn chịu đau khổ thế nhưng anh ta đang bị đau khổ hành hạ. Mong sao anh ta có thể thoát ra được mọi đau khổ và mọi nguyên nhân tạo ra đau khổ!
Sau đó bạn vận dụng luân phiên bài luyện tập Thiền định Cố định và Thiền định Phân giải.
3. Bạn chầm chậm mở rộng suy nghĩ của mình đến từng người một, đầu tiên là bạn bè, sau đó là những người xa lạ và kế đến là với kẻ thù của mình, cuối cùng là toàn thể mọi sinh linh trong vũ trụ này.
Khi bạn cảm nhận được tác động mạnh mẽ của niềm mong ước cao độ này, bạn hãy chuyển sang mức độ cao nhất của lòng từ bi, đây chính là quyết tâm “Mình sẽ giúp đỡ người này được tự do thoát khỏi mọi đau khổ và mọi nguyên nhân cấu thành đau khổ!”
1. Bạn hãy hình dung  một người bạn đang chịu đau khổ và bạn hãy nghĩ rằng: 
Giống như mình, người này cũng muốn được hạnh phúc và không muốn chịu đau khổ thế nhưng anh ta đang bị đau khổ hành hạ. Mong sao anh ta có thể thoát ra được mọi đau khổ và mọi nguyên nhân tạo ra đau khổ!

Rồi bạn vận dụng luân phiên bài luyện tập Thiền định Cố định và Thiền định Phân giải.
2. Bạn hãy hình dung một người bạn, anh ta sẽ chịu đau khổ trong tương lai vời những hành vi tiêu cực của anh ta trong hiện tại, những hành vi tiêu cực của anh ta là những hành vi mà tất cả chúng ta đều tham gia thực hiện trong khoảng thời gian bất tận này. Bạn hãy suy nghĩ rằng:
Giống như mình, người này cũng muốn được hạnh phúc và không muốn chịu đau khổ thế nhưng anh ta đang bị đau khổ hành hạ. Mong sao anh ta có thể thoát ra được mọi đau khổ và mọi nguyên nhân tạo ra đau khổ!
Sau đó bạn luân phiên vận dụng bài luyện tập Thiền định Cố định và Thiền định Phân giải.
3. Bạn chầm chậm mở rộng suy nghĩ của mình đến từng người một, đầu tiên là bạn bè, sau đó là những người xa lạ và kế đến là với kẻ thù của mình, cuối cùng là toàn thể mọi sinh linh trong vũ trụ này.
Qua quá trình thiền định này, lòng từ bi đúng nghĩa sẽ thực sự xuất hiện. Đây không phải là lòng từ bi bị pha lẫn lòng lưu luyến thì khi chúng ta gặp một rắc rối này nho nhỏ nào đó chúng ta lập tức trở nên tức giận. Lòng từ bi đúng nghĩa là một ý thức cao độ rằng tất cả mọi sinh linh đều cần phải  được tự do thoát ra khỏi mọi đau khổ.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ KÌM CHẾ TỨC GIẬN
Khi người khác tỏ thái độ hèn hạ và thô tục với bạn, bạn khó có thể giữ vững được lòng trắc ẩn của mình. Cảm xúc tức giận là một cảm xúc cần được kiểm soát chặt chẽ, nhưng nhất thiết không được che giấu. Bạn cần  thừa nhận những phản ứng của mình; đừng phủ nhận chúng. Nếu bạn  phủ nhận chúng thì lòng từ bi của bạn chỉ mang tính thiển cận hời hợt mà thôi.
Có hai loại cảm xúc tình cảm. Một loại cần phải được thể hiện ra bên ngoài, cần phải được thảo luận cụ thể. Ví dụ như cảm xúc buồn phiền. Giả nhe khi một người thân của bạn qua đời và bạn cảm thấy đau buồn. nếu thay vì che giấu chúng, bạn thể hiện chúng một cách thoải mái thì sức mạnh to lớn của nỗi đau buồn đó sẽ bị suy yếu ngay. Một loại cảm xúc khác gồm có tức giận, lòng lưu luyến và tham vọng; chẳng có giới hạn nào đối với những cảm xúc tình cảm như thế này. Ví dụ, nếu bạn thể hiện cảm xúc tức giận thì ngày mai nó có thể phát triển mạnh mẽ thêm; trong khi đó nếu bạn cố gắng kìm chế cảm xúc tức giận của mình thì nó sẽ suy yếu đi. Chúng ta có thể nhận thấy rõ điều này qua kinh nghiệm của chính mình. Việc bạn trau cho cảm xúc tức giận những công cụ gồm có lời nói và hành động cũng chẳng khác nào việc bạn trao cho một đứa bé một đống rơm và một chiếc que diêm. Một khi được thắp sáng, cảm xúc tức giận lập tức nuốt chửng lấy toàn bộ bầu không khí quanh nó và có thể bộc phát lấy toàn bộ bầu không khí quanh nó và có thể bộc phát ngoài khả năng kiểm soát của chúng ta. Giải pháp duy nhất là bạn cần phải liên tục kìm chế tức giận và để kìm chế được cảm xúc tức giận thì bạn cần phải suy nghĩ “Đâu là giá trị và ý nghĩa của cảm xúc tức giận? Đâu là giá trị của lòng khoan dung vị tha và lòng từ bi?”
Khi những ai  không xem những tình cảm ưu phiền chẳng hạn như tức giận là những cảm xúc tiêu cực cần phải được tẩy trừ thì họ cảm thấy như là chúng hoàn toàn đúng đắn. vì họ xem việc thỉnh thoảng họ nổi cáu là chuyện bình thường nên họ chẳng hề mảy may quan tâm đến việc kiểm soát cảm xúc tức giận của mình. Mặt khác, những ai xem chúng là những cảm xúc tiêu cực và có hại thì lại hoàn toàn không chấp nhận chúng.
Bạn hãy vận dụng khả năng nhận thức của mình để tự hỏi xem liệu cảm xúc tức giận có phải là cảm xúc có ích không. Nếu bạn trở nên tức giận với một người nào đó thì kết quả là cả bạn lẫn người đó đều chẳng gặt hái được kết quả nào cho tốt đẹp cả. chẳng có ích lợi nào có thể xuất hiện từ cảm xúc tức giận này. Cuối cùng, tức giận không gây hại cho người khác; nó gây hại cho chính bản thân bạn. Khi bạn tức giận thì thức ăn ngon cũng trở thành dở. Khi bạn tức giận thì thận chí bạn cũng cảm thấy khó chịu khi trông thấy gương mặt của chồng vợ mình, của con cái mình, hoặc bạn bè mình, không phải là do gương mặt của họ thay đổi mà là bởi vì có một cái gì đó sai lạc đang diễn ra trong thái độ của bạn. Khi một sự kiện không may xảy ra, bạn có thể đối mặt và kiểm soát nó một cách hiệu quả hơn nếu trong bạn không xuất hiện cảm xúc tức giận. Tức giận hầu như hoàn toàn không đem lại bất kỳ một lợi ích nào cho bạn cả. Có lẽ một lời nói lỗ mãng nào đó đôi khi cần thiết trong trường hợp bạn muốn ngăn ai đó không thực hiện một hành vi xuẩn ngốc nào đó, trong trường hợp này bạn không nên để cảm xúc tức giận xuất hiện trong bạn, bạn không nên để cảm xúc tức giận trở thành động cơ thúc đẩy chính trong bạn; bạn nên vận dụng lòng yêu thương và lòng từ bi là động cơ thúc đẩy chính trong mọi hoạt động của mình. Mọi hành vi xuất nguồn từ cảm xúc tức giận đều là những hành vi vô ích; việc ý thức rõ được điều này sẽ giúp bạn sẽ giúp bạn  nâng cao được quyết tâ, kìm chế được chúng.
Sẽ là một việc không dễ dàng khi bạn muốn phát huy lòng cảm thông dành cho mọi người, thế nên bạn đừng nản lòng nếu thái độ thiên vị vẫn xuất hiện trong quá trình thiền định của bạn. Một thay đổi sâu sắc như thế không thể xuất hiện chỉ trong một đêm, hoặc qua một tuần lễ, hoặc qua một tháng, hoặc thậm chí qua một năm. Tuy nhiên, bạn sẽ dần dần nhận thấy được những thay đổi diễn ra chầm chậm trong thái độ và hành vi của mình đối với từng cá nhân và toàn bộ thế gian này. Khi những phản ứng sai lạc xưa cũ xuất hiện trong bạn, bạn đừng suy nghĩ rằng điều bày cho thấy rằng mình đã thất bại trong bài thiền định này; mà bạn hãy xem đó là dấu hiệu cho thấy bạn cần phải thiền định nhiều hơn nữa.
KỸ THUẬT HÌNH DUNG: CHO VÀ NHẬN
Khi bạn trông thấy một ai đó đang gặp rắc rối bởi những đau khổ, bạn cần biết rằng những đau khổ của họ là do bởi những hành vi của chính họ ( nghiệp chướng ) và rằng vì vậy nên bạn không thể trực tiếp giúp đỡ họ được. Tuy nhiên, bạn có thể tự nguyện và sẵn lòng – từ lòng chân thật của mình – nguyện cầu cho anh ta với một ý chí mạnh mẽ:
Người này đang chịu đau khổ trong nguy ngập và mặc dù anh ta muốn được hưởng niềm hạnh phúc và tránh xa mọi đau khổ, anh ta không biết làm thế nào để tẩy trừ những xấu xa và trau dồi những phẩm hạnh trong lòng mình. Mong ước sao cho mọi đau khổ và mọi nguyên nhân cấu thành đau khổ nơi anh ta sẽ chuyển sang cho mình để mình gánh chịu thay !
Đây được gọi là bài luyện tập nhằm gánh chịu mọi đau khổ hộ người khác trong phạm vi vận dụng lòng từ bi của mình.
Vì lẽ đó, từ sâu thẳm lòng mình bạn có thể mong ước và hình dung rằng bạn trao tặng cho người đang chịu đau khổ đó niềm hạnh phúc của bản thân mình:
Tôi sẽ trao tặng cho những người đang chịu đau khổ này, không hề mảy may hối tiếc, tất cả mọi đức hạnh mà tôi đã có được do nghiệp chướng tốt của mình và những phẩm hạnh này sẽ giúp ích nhiều cho họ.
Đây được gọi là bài luyện tập nhằm trao tặng niềm hạnh phúc của chính mình trong phạm vi vận dụng lòng yêu thương.
Mặc dù sự hình dung này không thực sự đem lại các kết quả như thế, nhưng nó thực sự làm gia tăng mạnh mẽ quyết tâm và nghị lực trong bạn, đồng thời cũng tạo nên một không khí hòa bình tĩnh tại trong bạn. Hai bài luyện tập này được thực hiện kết hợp cùng quá trình tập trung quan sát hơi thở của chính mình – hít vào những đau khổ của người khác và thở ra niềm hạnh phúc của chính mình để trao tặng cho họ.
KỸ THUẬT HÌNH DUNG: 
VẬN DỤNG NHỮNG RỦI RO BẤT HẠNH

Tương tự như thế, khi bạn chịu đau khổ từ một bất hạnh nào đó, bạn hãy hình dung:
Mong ước sao cho bất hạnh này sẽ gánh chịu thay cho mọi bất hạnh khác của tất cả mọi người.
Bài luyện tập này sẽ giúp cho đau khổ của bạn không trở nên tồi tệ thêm do bạn phiền muộn về nó và sẽ giúp bạn củng cố thêm dũng khí của mình. Cũng rất hữu ích nếu bạn suy nghĩ rằng:
Mong ước sao cho đau khổ mà mình đang gánh chịu sẽ giúp bạn luôn giữ được nụ cười trên môi của mình. Việc lo lắng sẽ chẳng đem lại lợi ích gì, không đúng vậy sao?
Gần đây xuất hiện một trận động đất khá mạnh ở Dharmsala trong khi tôi đang tham gia bài thiền định hàng ngày nhằm trau dồi phát triển lòng yêu thương và lòng từ bi. Mặc dù trận động đất đó có khả năng gây hại cho tính mạng của tôi, nhưng tôi vẫn không hề sợ hãi, đó là do bởi khi ấy tôi đang tập trung chiêm nghiệm về những bất hạnh của mọi người. Nhưng tôi phải thú nhận rằng chỉ cách đó vài tuần lễ, trong khi bay ngang khu vực diễn ra chiến tranh giữa Bombay và Nam Phi thì tôi nhận thấy rằng lòng bàn tay mình đẫm mồ hôi. Thế nên tôi đã nghĩ rằng nếu nghiệp chướng của tôi là phải chết thì tôi không còn cách nào thoát chết khi ấy, nếu không thế thì sáng hôm sau tôi sẽ có mặt tại Nam Phi. Khi suy nghĩ như thế thì tôi cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm hơn. Điểm khác biệt ở đây chính là quan điểm của tôi. Nếu bạn có thể làm được một điều gì đó để giải quyết một rắc rối nào đó, bạn hãy thực hiện ngay; nếu bạn không thể thì việc bạn lo lắng cũng chẳng đem lại ích lợi gì.
Theo đoạn kinh Phật giáo Tây Tạng nói về việc trau dồi luyện tập lòng vị tha, khi bạn vui vẻ, bạn đừng để mình trở nên quá hứng khởi vì niềm vui đó và khi bạn đau khổ, bạn đừng để mình trở nên quá đau buồn vì đau khổ đó. Chúng ta thường có những lúc vui buồn nhưng theo cách này thì bạn có thể duy trì được sức mạnh nội qua của mình, không cho phép những bất hạnh phiền nhiễu đến sự tĩnh tại trong tâm hồn mình – không quá vui cũng không quá buồn, luôn tĩnh tại.
KHI NGƯỜI KHÁC LỢI DỤNG BẠN
Khi người khác cố ý muốn lợi dụng bạn vì một mục tiêu nào đó của họ, trong hoàn cảnh như thế, trước tiên bạn cần phải hiểu rằng mọi người cũng là loài người và họ có quyền được hưởng niềm hạnh phúc. Với lòng ngưỡng mộ và lòng từ bi dành cho họ, bạn có thể hành xử tùy theo hoàn cảnh mà họ tạo ra. Điều này có nghĩa là bạn có quyền phản ứng mạnh mẽ nếu cần thiết nhưng bạn đừng bao giờ đánh mất lòng từ bi trong tim mình. Thực ra, lòng từ bi là cách duy nhất có thể giúp ích cho bạn trong những hoàn cảnh như thế, vì tức giận trong trường hợp này chỉ đóng vai trò là rào cản gây trở ngại cho những hành vi tích cực và đồng thời tạo thêm nhiều rắc rối hơn nữa. Thoạt tiên bạn khó có thể duy trì được lòng từ bi dành cho một người nào đó đang thể hiện khả năng gây hại cho bạn, nhưng nếu bạn cố gắng lặp đi lặp lại, bạn sẽ tìm được cách hành xử hợp lý mà không đánh mất lòng từ bi và lòng yêu thương trong tim mình.
Cũng giống như mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái vậy. Đôi khi con cái cũng tỏ ra bướng bĩnh và ngỗ nghịch và để ngăn cản thái độ đó của con cái mình, người cha hoặc người mẹ  hành xử - tùy theo từng hoàn cảnh – bằng những lời nói cứng rắn hoặc có thể xử phạt đứa trẻ nhưng trong khi hành xử như thế thì họ vẫn không đánh mất lòng yêu thương của mình dành cho đứa trẻ đó. Đó chính là cách hành xử hợp lý nhất trong trường hợp này.

Hòa giải Sân Hận - Đức Đạt Lai Lạt Ma


Như đã nói qua, kết quả tai hại của những ý nghĩ giận dữ và sân hận nói trên, một người luôn bị giận dữ và sân hận chi phối , họ sẽ không nhận được sự bảo vệ nào từ cuộc sống giàu có; kể cả khi người ấy là triệu phú. Học thức cũng không bảo đảm người đó có thể được bảo vệ khỏi những hậu quả nầy. Tương tự như vậy, luật pháp không thể bảo đảm được việc nầy. Kể cả vũ khí hạt nhân, không cần biết hệ thống tự vệ hoàn chỉnh tới mức nào, nó cũng không bảo vệ hay giúp được gì cho ta. Yếu tố duy nhất có thể cho ta một nơi an trú hoặc sự bảo vệ an toàn để thoát khỏi hậu quả của giận dữ và sân hận là thực tập lòng kiên nhẫn và bao dung.

Ảnh hưởng của sân hận có tính cách phá hoại rất rõ ràng, hiển nhiên, tức thời. Thí dụ, khi một ý nghĩ căm hờn chắc chắn hoặc mạnh mẽ xuất hiện, ngay tức khắc, nó áp đảo con người hoàn toàn và hủy diệt sự an bình hiện thực của tâm thức. Khi một ý nghĩ căm ghét được nuôi dưỡng trong tâm, nó sẽ làm cho con người cảm thấy căng thẳng và bực bội, và nó gây ra triệu chứng mất ăn, mất ngủ, v…v…. 
Nếu chúng ta xét nghiệm làm thế nào sự tức giận hoặc các ý nghĩ chán ghét xuất hiện nơi chúng ta, chúng ta sẽ thấy, thông thường, nó xuất hiện khi chúng ta bị tổn thương, khi chúng ta bị đối xử không công bằng bởi người nào đó mà chúng ta đặt kỳ vọng nơi họ. Nếu ngay trong giây phút đó, ta xem xét kỹ lưỡng cách thức cơn giận xuất hiện, sẽ có một cảm giác là nó xuất hiện như một vị bảo hộ, một người bạn tới để giúp ta đánh trận hoặc trả thù cái người vừa làm ta tổn thương. Như vậy, cơn giận hoặc ý nghĩ chán ghét xuất hiện như một cái thuẫn hoặc một vị bảo hộ. Nhưng thực tế, đó chỉ là một ảo giác. Nó chỉ là tâm thức điên đảo mà thôi.Chandrakirti cho rằng Bước vào Trung Đạo có thể có những chỉnh lý về việc phản ứng sức mạnh với sức mạnh, nếu muốn trả thù thì đây là một cách, hoặc ngăn ngừa hay giảm thiểu sự gia hại. Tuy nhiên, trường hợp nầy không phải vậy, bởi vì nếu như bị gia hại nơi thân hay bị chửi mắng thì việc ấy đã xảy ra rồi, cho nên việc trả thù không hề làm giảm đi hay phòng ngừa được sự việc đã xảy ra rồi và không thể thay đổi được. 
Ngược lại, trong tình huống nào đó, nếu một người thay vì hành xử một cách bao dung, lại phản ứng một cách tiêu cực như trả thù, thì không những họ chẳng được lợi ích nào ngay tức thời, mà còn tạo thêm ra thái độ và cảm giác tiêu cực, và đó là mầm mống xấu cho kiếp sống ở tương lai. Quan điểm phật giáo cho rằng người nào trả thù, người đó sẽ một mình nhận lãnh kết quả sự trả thù đó trong kiếp sống ở tương lai. Do đó không những sự trả thù không mang lại lợi ích nào trong hiện tại, mà nó còn di hại tới cuộc sống lâu dài của người đó sau nầy. 
Tuy nhiên, nếu một người bị đối xử bất công và nếu như tình trạng đó không được quan tâm xử lý chính đáng, nó có thể mang lại những kết quả cực kỳ xấu cho kẻ đã tạo nghiệp ác. Trong trường hợp như vầy, cần đến sự phản ứng mạnh mẽ. Trong những tình trạng như thế nầy, một người cần có tư thế mạnh mẽ để có những phản ứng thích hợp, cần nhất là họ phản ứng trong tinh thần từ bi, không giận dữ hay sân hận. Thật vậy, một trong những giới cấm của Bồ Tát là cần có những phản ứng mạnh mẽ trong tình trạng khẩn thiết, và nếu như tình trạng cần kíp, mà vị đó không phản ứng gì thì xem như đã vi phạm một trong những giới Bố Tát. 
Lại nữa, như Bước vào Trung Đạo đã dẫn giải rõ, không những một thế hệ đầy dẫy các ý nghĩ sân hận đưa đến những dạng tái sanh không như ý trong kiếp sống ở tương lai, mà đồng thời các cảm giác giận dữ mạnh mẽ cũng xuất hiện, không cần biết người đó cố gắng giữ tư thế đáng kính như thế nào, khuôn mặt họ vẫn rất xấu. Họ cho thấy một khuôn mặt khó chịu, và người nầy phát ra những rung động rất thù nghịch. Người khác vẫn cảm nhận được, và dường như họ cảm nhận luôn được làn hơi nóng bốc ra từ thân thể của người kia. Thật ra không những chỉ con người mới có thể cảm nhận điều đó, kể cả gia súc và những thú vật khác cũng cảm nhận được, và sẽ tránh người nầy ngay tức khắc. 
Nếu ta xét nghiệm làm thế nào các ý nghĩ giận dữ hoặc sân hận xuất hiện nơi ta, ta sẽ thấy, thông thường mà nói, nó xuất hiện khi ta đang đau đớn, khi ta cảm thấy bị đối xử bất công bởi người mà ta không ngờ đến. 
Đây là những kết quả trước mắt của sân hận. Nó mang đến sự chuyển hóa xấu, sự khó chịu về thân cho con người. Lại nữa, khi sự giận dữ và sân hận xuất hiện kéo dài, khả năng phân biệt giữa đúng và sai, biết được kết quả ngắn hay dài hạn, phần khả năng tốt nhất ở não bộ, trở nên hoàn toàn tê liệt. Nó không còn hoạt động được nữa. Nó làm cho một người trở nên điên cuồng. Khi sự giận dữ và sân hận xuất hiện thì những kết quả tiêu cực cũng có mặt. 
Khi chúng ta nghĩ đến kết quả tiêu cực và sức hủy diệt của cơn giận dữ và sân hận, ta hiểu rõ ta cần tách rời chính ta ra khỏi những cơn bùng nổ của cảm xúc. Như đã nói qua, kết quả tai hại của những ý nghĩ giận dữ và sân hận nói trên, một người luôn bị giận dữ và sân hận chi phối , họ sẽ không nhận được sự bảo vệ nào từ cuộc sống giàu có; kể cả khi người ấy là triệu phú. Học thức cũng không bảo đảm người đó có thể được bảo vệ khỏi những hậu quả nầy. Tương tự như vậy, luật pháp không thể bảo đảm được việc nầy. Kể cả vũ khí hạt nhân, không cần biết hệ thống tự vệ hoàn chỉnh tới mức nào, nó cũng không bảo vệ hay giúp được gì cho ta. Yếu tố duy nhất có thể cho ta một nơi an trú hoặc sự bảo vệ an toàn để thoát khỏi hậu quả của giận dữ và sân hận là thực tập lòng kiên nhẫn và bao dung.


Bài giảng nầy được trích ra từ quyển sách Hòa giải Sân hận, bài thuyết pháp của ngài Dalai Lama, dựa vào « « Cẩm nang cuộc sống Bố Tát Đạo » », Nhà xuất bản Snow Lion (Sư Tử Tuyết).

Dịch giả: Mỹ Thanh